Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI ( phần 2 )

Tiếp

PHẦN HAI    
8  KIỂU THI PHÁP CƠ BẢN TRONG SÁNG TẠO VĂN HỌC
 CHƯƠNG I.   THI PHÁP NHÂN VẬT
             (Quan niệm nghệ thuật về con người          Nghệ thuật xây dựng nhân vật)
      I-   KHÁI NIỆM
 Nhân vật và sự miêu tả nhân vật
   Con người là đối tượng miêu tả chủ yếu của văn học trong các phương thức trữ tình, tự sự và kịch dù trực tiếp hay gián tiếp. Nhân vật có tên Kiều hoặc Kim Trọng hoặc không có tên như mụ dì ghẻ, tiểu đồng, ông quán. Nhân vật được sáng tạo, hư cấu để khái quát và biểu hiện tư tưởng, thái độ đối với cuộc sống. Ca ngợi nhân vật là ca ngợi cuộc đời, lên án nhân vật là phê phán đời. Xót xa cho nhân vật là xót xa đời. Tìm hiểu nhân vật là tìm hiểu về cuộc đời và con người, tìm hiểu tư tưởng tình cảm của tác giả đối với con người.
       Trong thơ trữ tình, có nhân vật trữ tình: con người tự bộc lộ nỗi niềm trước cuộc sống. Trong kịch, con người tự bộc lộ qua hành động ngôn ngữ của mình.
 Trong tác phẩm tự sự (truyện, kí ) nhân vật là con người được kể, tả ra bằng lời của nhà văn.
  Nói chung, nhân vật được miêu tả bằng các phương tiện văn học, tức bằng ngôn từ. Miêu tả bao gồm tả cảnh ngụ tình, diễn tả cảm xúc, tường thuật, kể sự việc… gọi chung là hình thức của văn học.
  Miêu tả trong văn học khác với miêu tả trong các khoa học khác thường chỉ cần đạt sự chính xác, khách quan. Ở đây miêu tả nhằm hai mục đích: gợi ra hiện tượng cuộc sống và gợi ra sự cảm thụ và bộc lộ cái nhìn của tác giả. Từ đó nhà văn thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người.
  1. Quan niệm nghệ thuật về con người
Thực tế có hai quan niệm về con người:
Một là: Con người như một phạm trù tư tưởng, chính trị,  đạo đức xã hội.
Hai là: Con người như một phạm trù thẩm mĩ.
Quan niệm thứ hai chủ yếu là quan niệm của  văn nghệ sĩ.
Nàng Kiều là nhân vật có nội tâm phong phú nhưng nàng chỉ biết nhớ người thân trong hiện tại, không ưa sống trong hồi tưởng và sống với quá khứ như các nhân vật tiểu thuyết hiện đại sau này. Đó là do quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Du chưa đạt tới như thời hiện đại.
 Triết lí về con người có quan hệ mật thiết với quan niệm nghệ thuật về con người. Quan niệm nghệ thuật không ngừng được mở rộng thì nhà văn càng có khả năng miêu tả chiều sâu và sự phong phú của nhân vật, cũng gọi là khả năng cảm nhận về con người của nhà văn.
 Nghiên cứu thi pháp nhân vật khác với công việc phân tích nhân vật. Phân tích nhân vật là chỉ ra các nội dung đựơc thể hiện trong nhân vật như tính cách, ngoại hình, phẩm chất, niềm vui, nỗi buồn, lí tưởng… Trái lại khi  nghiên cứu thi pháp nhân vật, ta phải khám phá cách cảm nhận con người qua việc miêu tả nhân vật. Tất nhiên, khi ta đã tìm hiểu thi pháp nhân vật thì việc phân tích nhân vật sẽ sâu sắc hơn, toàn diện hơn.
 Phạm trù “quan niệm nghệ thuật về con người” là ý thức của văn học và hiện diện trong ý thức hoặc vô thức của tác giả. Nhiều nhà văn lớn đã có ý thức sáng tạo ra quan niệm nghệ thuật mới mẻ về con người.
II – NGHIÊN CỨU MỘT SỐ KIỂU THI PHÁP NHÂN VẬT
      1.Truyện Thánh Gióng
Truyện này có nhiều yếu tố truyền thuyết đặt trong một thời kì xa xưa – thời kì huyền thoại: đời vua Hùng thứ VI ở làng Gióng. Cốt truyện mang màu sắc sử thi anh hùng được kể qua năm chi tiết:
-         Sự sinh đẻ kì diệu do người mẹ giẫm lên dấu chân lạ mà thụ thai
-         Sự lớn lên kì lạ
-         Việc rèn đúc vũ khí đặc biệt: ngựa sắt, roi sắt
-         Một  mình đánh tan quân giặc
-         Cưỡi ngựa bay về trời
Truyện này có chất cổ tích pha lẫn thần thoại. Thần thoại miêu tả các anh hùng văn hoá cổ sơ như Ông Trụ Trời, ông tát bể, ông kể sao, thì đây “ông đánh giặc”. Ông sinh ra không làm trẻ con (nằm yên, không cười nói, không ngồi) ông chờ sứ mệnh. Khi đánh giặc xong không còn việc gì làm ở trần gian thì ông về trời. Ông là một vị thần. Vậy Ông Gióng thuộc loại nhân vật chức năng đánh giặc.
2.Truyện họ Hồng Bàng (Lạc Long Quân và Âu Cơ)
Truyện thần thoại bộc lộ quan niệm cổ sơ về dân tộc gọi là truyện gia hệ khởi nguồn cho dân tộc Việt. Lạc và Âu là chị em chú bác ruột (cha của hai người là anh em cùng cha khác mẹ). Âu Cơ giống tiên, Lạc Long Quân theo họ mẹ thuộc giống rồng – mẫu hệ. Chàng là nhân vật anh hùng khai sinh văn hoá – khai sáng, dạy dân nhiều nghề và xuất hiện ờ mọi nơi, có tài biến hoá. Chức năng chủ yếu của Lạc Long Quân là cưới Âu Cơ sinh trăm trứng, khai sinh nòi giống (ca hát đánh trống để quyến rũ Âu Cơ, rồi đem giấu vợ một nơi kín đáo). Là nhân vật thần thoại, Lạc chưa có sự thống nhật nội tại, hành động chưa nhất quán. Khi dân chúng khổ sở vì nạn phương Bắc quấy nhiễu, họ gọi “bố ở đâu mà để dân phương Bắc xâm hại dân ta” thì Lạc đột nhiên hiện về nhưng việc đầu tiên là say mê Âu Cơ… Vậy Lạc Long Quân là nhân vật chức năng (sinh đẻ). Thần Kim Quy cũng là nhân vật chức năng.
     3.Truyện cổ tích Tấm Cám
Các nhân vật chính vẫn là nhân vật chức năng – chức năng thể hiện những nguyên lí của thế giới “ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”. Chia ra hai loại nhân vật: thiện và ác. Họ chỉ hành động, không thể hiện cảm giác, phản ứng, lí trí như người bình thường. Tấm chẳng hề nghi ngờ mẹ ghẻ chặt cậy hại mình, lại tin lời mẹ là đuổi kiến. Vua thấy Tấm chết, chẳng có hành động đối phó, chỉ lặng lẽ buồn. Khi có chim vàng anh, vua quên Tấm. Nhìn  chung các nhân vật không có nội tâm, chỉ có cái ác và cái thiện thể hiện chức năng của nó. Vua chỉ làm một chức năng là ban thưởng cho Tấm người hiền. Trước đó bụt làm chức năng hành thiện, Bụt cho Tấm quần áo mới và đôi hài đẹp, cho đàn chim nhặt thóc, để cho nàng kịp trẩy hội xuân. Khi Tấm trở thành hoàng hậu, Bụt không xuất hiện nữa vì đã có nhà vua trẻ.
4.Truyện người thiếu phụ Nam Xương
(Truyện cổ tích trung đại, do Nguyễn Dữ kể lại bằng chữ Hán)
Một số phận bi kịch của người phụ nữ trong một gia đình phong kiến trong thời buổi đất nước loạn lạc. Nhà văn vẫn chưa miêu tả nội tâm nhân vật trong những tình huống chia ly, ngóng đọi, bị oan uổng… mà chỉ nói qua vài điều bằng lời nói của nhân vật. Lời nói của các nhân vật đều chung một giọng điệu như nhau. (Văn 9 tập 1). Vũ Nương đã được giải thoát bằng cái chết trên dòng sông, sống vui vẻ dưới thuỷ cung với Linh Phi nhưng nàng vẫn đòi hỏi cái thế giới cũ và người chồng phải giải oan cho nàng (cũng như Linh Phi đã đền ơn cho Phan Lang).
Người xưa rất coi trọng danh tiết, chết rồi vẫn mong giữ vẹn danh tiết. Vũ Nương không đoàn tụ gia đình nhưng ngậm cười, yên dạ nơi cõi âm. Đó là quan niệm nghệ thuật về “con người danh tiết” thời phong kiến.
5.Con người trong Truyện Kiều
Đây là vần đề lớn và phức tạp trong một kiệt tác văn học. Ở đây nêu một số quan niệm khái quát:
      Con người so sánh với thiên nhiên vũ trụ, khát khao tự do cùng thiên nhiên
Những vẻ đẹp của chị em Kiểu đều so sánh với thiên nhiên, ngay cả Từ Hải cũng vậy:
Râu hùm, hàm én, mày ngài
Đội trời đạp đất, chọc trời khuấy nước
Kim Trọng khóc Kiều:   Vật mình vẫy gió tuôn mưa
Kiều làm thơ:        Tay tiên gió táp mưa sa
Vương Quan thi đỗ :         Cửa trời rộng mở đường mây
hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần

Từ Hải ra đi lập nghiệp:    Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương
Kiều  tiễn đưa ngóng đợi Từ Hải:      Cánh hồng bay bổng tuyệt vời
đã mòn con mắt chân trời đăm đăm
            Họ là những con người khát khao vũ trụ với đặc trưng: tỏ lòng, tỏ chí, đó là nhu cầu bày tỏ tâm hồn để hiểu nhau. Kể cả Vũ Nương cũng chỉ muốn tỏ lòng trung trinh của mình. Thuý Kiều muốn chứng tỏ mình giữ lời thề đã phải nhờ em gái thay mình lấy chàng Kim, để mình được tỏ lòng hiếu thảo với cha.
Nhà thơ Nguyễn Du cảm thấy con người thời này đã bắt đầu có ý thức về “cái tôi” cá nhân, con người cảm thấy thích cô đơn (Kiều thích ngồi một mình để sống với hồi tưởng riêng). Kiều bắt đầu dám vượt qua khỏi khuôn sáo của lễ giáo phong kiến “trung, hiếu, tiết, nghĩa”. Nàng không giấu những ham muốn bình thường của con người.
     Nhà thơ Nguyễn Du đã nhìn thấy con ngưởi phức tạp chứ không phải giản đơn, con người nhiều chiều. Nhà thơ đã nhìn nhân vật từ bên trong.
Nhân vật sống trong đời thực nhưng cảm thấy mình sống theo số mệnh quy định             bởi  ông Trời.
Con người ấy phi nhân tính, bị tha hoá. Đó là khám phá của Nguyễn Công Hoan.
6.Con người trong “Lão Hạc”
Tác phẩm Nam Cao là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực. Nơi đây nhà văn miêu tả con người như chính họ trong cuộc sống.
-         Về mặt quan niệm xã hội, Lão Hạc cần được coi là con người “đáng kính, đáng thương”.
-         Về mặt nghệ thuật, Lão Hạc được miêu tả là con người tâm lí – sống nội tâm. Nghĩa là lão tự dằn vặt mình, sống với mình – một bước phát triển cao của con người.
Nam Cao đã phát hiện thấy sự chênh lệch giữa vẻ bề ngoài và nội tâm của con người.
Nghĩ về bà vợ của “ông giáo”, Nam Cao viết: “Chao ôi! Đối với những người sống quanh ta, nếu ta không cố mà tìm hiểu họ thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi, toàn những cái cớ để ta tàn nhẫn, không bao giờ ta thương họ”. Với Lão Hạc, nhà văn đã miêu tả một con người có nội tâm sâu sắc, cao thượng bên trong một vẻ bề ngoài tầm thường: lão có con mắt thờ ơ, hời hợt, chẳng mấy ai hiểu lão. Lão Hạc có tâm hồn ngay thẳng, trong sạch và đau đớn. Lão nói chuyện về con chó nhiều lần mà chưa dám bán. Lão thương con Vàng nhưng làm bộ ghét nó. Lão cười như mếu (buồn mà cố vui vẻ), đôi mắt ầng ậng nước. Lão phải giả bộ gian xảo để xin Binh Tư ít bả chó (nói dối đi bẫy chó) nhưng dùng thuốc để tự sát. Lão chết dữ dội nhưng dân làng chẳng ai biết sự thật ngoại trừ ông giáo. Đã vậy Binh Tư và dân làng còn hiểu lầm lão.
Cũng với cái nhìn con người như thế, nhà văn miêu tả Chí Phèo. Y thực là một con người bình thường và đáng thương dưới cái vẻ “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”.
Tóm lại:  Quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc cảm nhận thẩm mĩ khi xây dựng nhân vật. Quan niệm đó chi phối nhà văn khi miêu tả nhân vật và các bộ phận khác của tác phẩm (kể cả lời dẫn truyện.v.v..). Đây là kiểu thi pháp cơ bản nhất của văn học nghệ thuật.
CHƯƠNG II .   THI PHÁP KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT
I. Khái niệm
Không gian nghệ thuật thuộc phạm trù hình thức nghệ thuật, là phương thức tồn tại, triển khai thế giới nghệ thuật. Không gian nghệ thuật là trường nhìn được mở ra từ một điểm nhìn, cách nhìn. Mỗi tác phầm có một không gian do tác giả lựa chọn và miêu tả
Ai đem ta tới chốn này
Bên kia là núi, bên này là sông (ca dao)
Gió lùa can gác xép
Đời tàn trong ngõ hẹp (Vũ Hoàng Chương)
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim (Tố Hữu)
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi. (Xuân Diệu)
Trong mỗi câu thơ trên  có một không gian riêng, vốn dĩ là gian vật chất. Nhưng trong văn học nghệ thuật, không gian thuộc thế giới tinh thần, nó trở thành ngôn ngữ và biểu tượng nghệ thuật.
Là một hiện tượng nghệ thuật, không gian nghệ thuật mang tính ước lệ giàu ý nghĩa cảm xúc. Trong ngôn ngữ dân tộc, không gian đã được mã hoá thành ý nghĩa đời sống, chẳng hạn “cao cả, thấp hèn, nông cạn, sâu sắc, thiên vị, chính trực, ngay thẳng, quanh co, đại lượng, hẹp hòi…”. Người ta đã mượn ý niệm về không gian để miêu tả con người. Đó là không gian nghệ thuật chung của mọi người. Mỗi nhà văn nhà thơ lại chọn hoặc sáng tạo cho mình một không gian riêng.
Không gian có ba chiều, nhưng có thể thêm một chiều nữa là “thời gian”, chẳng hạn: hồi ấy, dạo ấy… Vậy thời gian là chiều thứ 4 của không gian.
II – KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
  1. KGNT trong Tấm Cám
Nói chung không gian cổ tích có một đặc tính chung là: không có vật cản đối với hành động và vận động của con người. Tấm, Cám, Bụt, chim sẻ, cá bống, khung cửi, cây thị… đều có chung tiếng nói và hiểu nhau được hết. Không miêu tả không gian lễ hội, cung vua… chỉ có một không gian làng quê làm nền chung cho mọi không gian, và không gian mờ nhạt này tạm đủ gây ấn tượng cho người đọc. Người ta chỉ thuật lại hành động tuần tự diễn ra.
  1. KGNT trong Chinh phụ ngâm
Không gian biệt li chiếm phần lớn khung cảnh thơ:
Mọi cảnh tượng vật chất vật thể, màu sắc, âm thanh…như bị xoá nhoà:
                                        Ngòi đầu cầu nước trong như lọc
                                                đường bên cầu cỏ mọc còn non
Đó là chốn nào ? Có vẻ một nơi vô định, mơ hồ ! Toàn bộ khúc ngâm dài của người chinh phụ có nhiều cảnh mơ hồ, mù mịt như thế. Đó là những phong cảnh nặng trĩu tâm trạng buồn bã thất vọng của người vợ vắng chồng. Chỉ biết nhớ người, còn cảnh vật chẳng có ý nghĩa gì với nhân vật trữ tình. Không gian ở đây đã trở thành một ngôn ngữ đặc biệt nói giùm cái tâm trạng nhân vật. Nhà thơ đã giao cho không gian nhiệm vụ nghệ thuật ấy.
  1. KGNT trong Truyện Kiều
            Có khá nhiều không gian trong truyện :
-         Không gian cô đơn suốt 15 năm
-         Không gian giang hồ mênh mông vô định
-         Những cảnh vật thờ ơ vô tình với Kiều
-         Những đêm trăng vây bủa nàng Kiều
- Những không gian ảo giác
-  Những con đường vườn khuya, lối mòn, dặm cát, vó câu, bánh xe…theo
   sát cuộc đời Kiều
- Những không gian tù hãm cuộc đời nàng .v.v..
(BÀI TẬP: sinh viên hãy tìm đủ những câu thơ miêu tả các không gian kể trên trong Truyện Kiều)
Nhìn chung cuộc đời Kiều gặp bao trở ngại vì không gian (ngoài nguyên nhân chính là vì những kẻ ác trong xã hội). Đó là sự thật nhưng cũng là KGNT mà nhà thơ đã chọn để xây dựng nhân vật.
Đặc sắc nổi bật của nghệ thuật Truyện Kiều chính là nghệ thuật tả không gian, cùng với nhiều biện pháp nghệ thuật khác (Khi đưa Truỵên Kiều lên sân khấu, người ta bất lực vì không thể tạo được những không gian như Nguyễn Du đã tả bằng lời thơ. Nghĩa là cái không gian nghệ thuật của Nguyễn Du rất riêng biệt – khó mà chuyển thể được)
  1. Không gian nghệ thuật trong hai bài thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi
 Trại đầu xuân độ 头春渡


Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
Cô chu trấn nhật các sa miên
渡头春草绿如烟
春雨添来水拍天
野径荒凉行客少
孤舟镇日搁沙眠
Bến đò xuân đầu trại


Cỏ xuân đầu bến biếc như mây
Thêm lại mưa xuân trời nước đầy
đường nội vắng teo hành khách ít
thuyền côi gác bãi ngủ thâu ngàyĐầu bến, cỏ xuân xanh lục như khói
lại thêm  mưa xuân nước vỗ ngang trời
Đường ngoài nội vắng teo ít người đi
thuyền đơn côi suốt ngày gác đầu lên bãi ngủ
Ức Trai thi tập (Đào Duy Anh dịch)

Mộ xuân tức sự  暮春即事


Nhàn trung tận nhật bế thư trai
Môn ngoại toàn vô tục khách lai
đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão
nhất đình sơ vũ luyện hoa khai
o
Cảm tác cuối xuân
Thong thả trọn ngày đóng cửa phòng sách
Ngoài cửa không hề có khách tục đến
Trong tiếng đỗ quyên kêu nghe xuân đã về già
cả sân hoa xoan nở dưới mưa phùn.dịch thơ
Trọn ngày thong thả khép phòng văn
khách tục bên ngoài chẳng bén chân
Khắc khoài quyên kêu xuân đã muộn
Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân
Mỗi bài thơ có hai không gian tương phản.
Một không gian sinh hoạt của con người: không hoạt động, tĩnh lặng (hai câu đầu bài Cuối xuân tức sự và hai câu cuối bài Bến đò xuân đầu trại).
Một không gian thiên nhiên vũ trụ tươi đẹp, nổi lên tràn đầy sức sống (những câu còn lại). Nhà thơ sống trong khung cảnh tĩnh lặng, ông lắng nghe, hoà mình vào trong cảnh vật, để cho tâm hồn hoà điệu với thiên nhiên, hầu gạt bỏ mọi ưu phiền bận bịu của cuộc sống xã hội, để rồi lấy thêm sức mạnh của thiên nhiên chờ ngày trở lại phò vua giúp nước.
  1. Không gian trong bài “Thu điếu” của Nguyễn Khuyến
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Ông già câu cá không chú ý tới cá, ông chỉ nhìn ngắm, lắng nghe và cảm nhận mùa thu với tâm trạng siêu thoát. Người ta bảo ông đi “câu” mùa thu chứ không câu cá . Đến hai câu chót ông mới choảng tỉnh trở lại với thực tại.
  1. Không gian trong “Ngắm trăng” (Vọng nguyệt – Hồ Chí Minh)
  

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa
Đối thử lương tiêu nhược nại hạ ?
Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt
Nguyệt tòng song khích khán thi giaTrong tù không rượu cũng không hoa
Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ
  Hai câu đầu là một không gian nội tâm. Hai câu sau là không gian thực tại được nhìn như một bức tranh. Nhà thơ tự ngắm mình và ngắm trăng hạn chế qua khe cửa. Cái bức tường nhà tù chẳng thể cản trở, chỉ buồn còn thiếu “rượu và hoa”. Nhưng thôi đã có ánh trăng làm bạn, an ủi lẫn nhau.
CHƯƠNG III.   THI PHÁP THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
 I – KHÁI NIỆM
Cùng với không gian nghệ thuật, thời gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật. Thế giới tồn tại và xác định trong không gian và thời gian. Thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật không tách rời nhau nhưng trong một tác phẩm nhà văn có thể chú ý sử dụng cả hai hoặc chỉ một trong hai.
Thời gian khách quan vật chất có các tính chất sau:
-         Có độ  dài, có hướng vận động, có nhịp điệu
-         Có 3 thời: quá  khứ, hiện tại, tương lai và vận động một chiều
Thời gian được tái tạo lại trong  tác phẩm (nên gọi  là thời gian nghệ thuật) luôn luôn mang quan niệm, cảm xúc và ý nghĩa nhân  sinh có tính chủ quan. Vậy: thời gian nghệ thuật là một hình tượng được sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật.
Thời gian nghệ thuật có thể tự do đảo ngược, rong ruổi ngược xuôi, co giãn, đồng hiện (chồng chất hai thời gian khác nhau).v.v..
II THỜI GIAN NGHỆ THUẬT THAY ĐỔI THEO DÒNG LỊCH SỬ
1. Thời gian nghệ thuật trong thần thoại
Thời gian hoà lẫn với không gian thành một yếu tố “không – thời” mờ nhạt, tĩnh tại,      không đầu, không cuối, không trật tự, chẳng hạn “ngày xửa ngày xưa ở vùng núi non trùng điệp phương Nam…” (truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ). Tư duy cổ sơ của người xưa chưa thể nhận thức được thời gian, chưa xác định đo đếm được thời gian.
  1. Thời gian trong sử thi, truyền thuyết
Đó là thời gian quá khứ tuyệt đối khép kín. Sử thi tồn tại trong một quá khứ tách rời hẳn với hiện tại chẳng có mối liên hệ nào. Thời gian ấy mang tính không gian trôi đi không còn dấu vết. Hồi ấy con người vẫn phải chờ đợi nhưng là chờ đợi vượt qua vật cản không gian chứ không màng thời gian. Chẳng hạn Odyssee phải trải qua 20 năm phiêu bạt nhưng cái ngă trở chính là đại dương Địa Trung Hải nhiều bến bờ mênh  mông xa lạ (10 năm đánh thành Troie và 10 năm trở về – sử thi Hi Lạp)
  1. Thời gian cổ tích
Thời gian đo bằng sự kiện, chưa có thời gian tâm lí mong chờ, khắc khoải. Nhân vật không biết hồi tưỏng (không có ý niệm về quá khứ và hiện tại), không biết ước mơ (không có ý niệm về tương lai). Nhân vật không biết hồi tưởng và không biết ước mơ, như vậy nghĩa là cũng không xác định được hiện tại, không gắn với lịch sử đang trôi chảy.
  1. Thời gian trong văn học trung cổ
Thời gian tuần hoàn có tình chu kì theo vận động của tuấn trăng, sao, mặt trời, thời  tiết, mùa vụ trồng trọt hay săn bắt:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Dẫu sao, thời gian tuần hoàn cũng đã là một bước tiến bộ so với thời gian cổ tích.
  1. Thời gian trong văn học cận hiện đại
Ý thức thời gian ngày càng phong phú hơn, đa dạng hơn như: thời gian tâm lí, thời gian sinh hoạt, thời gian, lịch sử…
Nếu ở các “truyện tình trung cổ” như Truyện Kiều, truyện anh hùng Tam quốc diễn nghĩa chưa có thời gian sinh hoạt như chiều hôm ấy, đêm hôm ấy, khuya… giữa trưa. Thì đến Hồng Lâu Mộng, tiểu thuyết giáp ranh hiện tại, Những người khốn khổ, Miếng da lừa, Sống mòn… tràn đầy những thời gian sinh hoạt. Đây là cống hiến quan trong, bước tiến dài của tiểu thuyết thế kỉ XIX nối sang XX hiện đại.
Thời gian lịch sử được bộc lộ rõ nhất trong nến văn học hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa, đặc biệt là ý thức về thời gian tương lai. Thời gian gắn liền với những cuộc cách mạng và biến thiên của lịch sử loài người ngày nay.
III – MỘT SỐ KIỂU  THỜI GIAN NGHỆ THUẬT
 1. Thời gian có hai lớp
- Thời gian trần thuật (thời gian tác giả phát ngôn, đây là trọng tâm)
- Thời gian được trần thuật (ví dụ 15 năm Kiều lưu lạc)
Giữa hai lớp thời gian này có một khoảng cách, có thể rất lớn (truyện cổ tích: ngày xửa ngày xưa) nhưng có khi bằng 0/không (truyện Lão Hạc – hai lớp thời gian này trùng nhau: ông giáo vừa kể chuyện, cuộc đời lão Hạc diễn ra cùng lúc).
Thời gian trần thuật bao gồm nhiều loại:
-         Thời gian nhân vật rất quan trọng, nó làm cho công chúng nhận ra sự tồn tại của nhân vật. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết “Vỡ bờ”, nhân vật Khắc chết ngay từ đầu. Anh tiểu biểu cho lớp chiến sĩ hi sinh trước khi cách mạng thành công. Nhân vật này có tính tổng hợp, đại biểu cho một giai đoạn cách mạng.
-         Thời gian nội tâm nhân vật hay thời gian tâm lí.
-         Thời gian sự kiện là thời gian năng động, biến hoá nhất trong tác phẩm. Nó đối lập với thời gian miêu tả. Thời gian sự kiện có tính gấp khúc, đột biến, dồn dập hoặc gối lên nhau, hoặc giãn ra.
-         Thời gian miêu tả: tĩnh tại. Nếu miêu tả nhiều thì nhịp điệu dòng sự kiện trôi chậm và ngược lại.
-         Thời gian đối thoại gọi là thời gian kịch.
-         Thời gian lịch sử được coi trọng đặc biệt trong văn học hiện thực Xã Hội Chủ Nghĩa. Nó dùng để miêu tả tương quan giữa con người và lịch sử, giữa cũ và mới. Nhân vật hành động theo dòng lịch sử và theo sự phát triền xủa cách mạng.
2. Thời gian 3 đoạn
  1. 1.       Quá khứ
Có nhiều cách để thể hiện quá khứ. Chẳng hạn quá khứ cư ngụ trong nhân vật cụ già Mết (Rừng xà nu của Nguyên Ngọc).
Phương tiện “hồi tưởng” được dùng phổ biến nhất với nhiều hình thức khác nhau. Đây là một bước tiến của văn học cận hiện đại (từ thế kỉ XIX).
  1. 2.       Tương lai
Báo hiệu một viễn cảnh, phương hướng phát triển của cuộc sống nhân vật.
Phương tiện có thể là “giấc mơ”, “dự cảm”. Hình tượng trẻ thơ cũng được dùng: chẳng hạn truyện “Số phận con người” của Sholokhov, cậu bé Vania thực ra đang dẫn người lính Sokolov đi tới (Văn 12 tập II). Người phụ nữ có thai cũng báo hiệu một tương lai (Tiết Bảo Thoa trong Hồng Lâu Mộng – cái thai báo hiệu dòng họ Giả còn hi vọng phục hồi và phục hưng, nhà văn Cao Ngạc không nỡ để cho những người quý tộc thân yêu của ông phải tuyệt tự. Kiều không sinh nở nữa mà nhường cho Thuý Vân, nàng không nghĩ tới tương lai nữa. Thị Nở cúi nhìn bụng, rùng mình nghĩ tới cái thai cảnh báo nỗi sợ hãi một thằng quỷ dữ con của làng Vũ Đại!). Còn trong truyện ngắn “Thuốc” của Lỗ Tấn, hai gia đình họ Hạ và họ Hoa đều mất đứa con duy nhất, báo hiệu gia đình họ mất tương lai.
  1. 3.      Hiện tại
Văn học hiện đại có nhiều cách thể hiện nhất với thì hiện tại. Trong đó, cảm nhận về sự tồn tại thường xuyên vĩnh viễn của những giá trị cao quý bất chấp thời gian – đó là tính lí tưởng cách mạng, là những giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc “bốn mươi thế kỉ cùng ra trận”. Thời gian nghệ thuật trong bài “Cảnh rừng Việt Bắc” là một thời gian hiện tại nhưng hoàn toàn vĩnh viễn (đứng yên, lúc ấy đang thời gian kháng chiến).
“Người đi tìm hình của nước”, nhà thơ Chế Lan Viên đứng ở thời điểm 1960 mà đẩy lùi thời gian hiện tại về quá khứ đầu thề kỉ 20 để dõi theo bước chân của lãnh tụ; đối chiếu hai quá khứ của Bác Hồ và nhà thơ và đối chiếu với hiện tại.
Thực hành
 1. Lạc Long Quân, thần Kim Quy, Thánh Gióng
Thời gian thần thoại chỉ có “khởi đầu”, sau đó đứt đoạn, không gắn liền với thời gian lịch sử và cũng không có độ dài.
2.Truyện Tấm Cám
Thời gian cổ tích cũng không gắn lịch sử. Nó không có quá khứ và tương lai. Nó là thì quá khứ hoàn thành gọn trong quá khứ. Thời gian được đo bằng chuỗi sự kiện, sự cố mà thôi.
3. Từ Thức gặp tiên
Chuyện ở cuối thế kỉ 14 đầu 15. Thời gian cốt truyện là 1 năm, nhưng trong 3 ngày ở cõi tiên với Giáng Hương, Từ Thức đã cảm thấy dài bằng năm. Chàng nhớ quê năn nỉ xin về. Rồi chàng bỏ đi đâu mất tích. Xuất hiện “thời gian quan niệm” – quan niệm về cõi tiên vĩnh hằng và cõi trần ngắn ngủi.
4.Chinh phụ ngâm
Thời gian của nỗi nhớ mong triền miên dằng dặc hướng về tương lai. Cảm xúc thời gian đậm đặc, gay gắt, cồn cào trong tâm hồn chinh phụ. Suốt tác phẩm là một thời gian tâm trạng đã tượng hình. Không gian tuy có ần hiện trong tác phẩm nhưng đã bị chuyển hoá thành ý niệm thời gian rồi. Thời gian ấy kéo dài không dứt, đồng nhất với nỗi đau khổ khôn nguôi, không lối thoát của người chinh phụ.
5. Thề non nước
Một thời gian tuần hoàn theo truyền thống trung cổ:
Nước đi chưa lại non còn đứng trông
Non cao những ngóng cùng trông
Nước đi ra bể lại mưa về nguồn
Thời gian mang lại một niềm tin, niềm an ủi tâm hồn (nó đi rồi nó lại trở về, không mất đâu).
  1. Thời gian hồi tưởng trong “Nhớ rừng”
Nỗi nhớ tiếc khôn nguôi một thời oanh liệt và những giá trị đẹp cũ nay còn đâu! Thời gian phản ứng với những cảnh tù túng giả tạp tầm thường của thời gian hiện tại.
Hồi tưởng đối chiếu với thời hiện tại là một thi pháp hiện đại. Thế Lữ mới chỉ đánh thức quá khứ chứ chưa nhập nó vào hiện tại:
Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Đâu những chiều lênh láng máu trong rừng (bữa tiệc)
     Nỗi đau đớn ở đây là “thời gian quá khứ” đã mất đi không trở lại.
  1. “Vội vàng” của Xuân Diệu
Thời gian là sự tiêu hao, làm mòn mỏi tiêu tan hương sắc tuổi trẻ, nó rơi rụng tàn phai. Giá trị cuộc sống không tái lập lại. Nhà thơ khao khát sống, tích cực, mãnh liệt hơn, chạy đua với thời gian.
  1. “Ý xuân” của Tố Hữu
Thời gian nghĩa là đổi mới, giải phóng, tươi trẻ yêu đời. Hình ảnh “xuân” tràn ngập thơ ông như một sức mạnh mới:
Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới
Bạn đời ơi vui chút với trời hồng
Hết lạnh rồi, gió bấc với mưa giông
Đây nắng tới với chim ca lanh lảnh
Càng về sau thơ ông càng lạc quan, hứng khởi. Thời gian trong thơ Tố Hữu chỉ có một tương quan: hôm nay và ngày mai đang đến.
  1. Thời gian trong “Chí Phèo”
Nhìn chung, thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn và tiểu thuyết phong phú đa dạng hơn hẳn thơ. Số phận Chí Phèo thể hiện trong một thời gian tuần hoàn – Năm Thọ lặp lại Binh Chức, Chí Phèo lặp lại Năm Thọ. Khi Chí Phèo chết, Thị Nở cúi nhìn nhanh xuống bụng và lo sợ Chí Phèo luân hồi trong cái làng Vũ Đại nhỏ hẹp này.
Thời gian nghệ thuật của thiên truyện Chí Phèo là thời gian huỷ diệt nhân tính. Theo thời gian ấy, kẻ ác càng gian xảo, người lương thiện biến thành quỷ dữ. Chí Phèo chẳng biết gì cảm giác thời gian, không biết tuổi mình. Cho đến khi gặp Thị Nở, cuộc đời hắn phục sinh, hắn nhớ ra tuổi mình, nhưng không còn kịp nữa …
CHƯƠNG IV .    THI PHÁP CHI TIẾT NGHỆ THUẬT
I – Khái niệm
Mỗi hình tượng nghệ thuật được thêu dệt nên bằng nhiều chi tiết lớn nhỏ khác nhau. Những đối tượng miêu tả như nhân vật, cảnh vật, môi trường… tạo nên bằng hình dáng, đường nét, âm thanh, thuộc tính chọn lọc mà tác giả cho là cần thiết nhất, quan trọng nhất, loại bỏ nhửng cái rườm ra không cần thiết.
Chi tiết là những bộ phận nhỏ, tự nó đứng riêng thì không có ý nghĩa, nhưng khi kết lại nó biểu hiện một ý nghĩa của tác phẩm.
Chi tiết chính là điểm nhìn, thể hiện quan niệm nghệ thuật và tâm hồn tác giả đối với đối tượng đó (so sánh: máy quay phim chiếu rõ cảnh nào trên màn ảnh thì đó cũng là điểm nhìn của nhà quay phim – điểm nhìn của tác giả phim).
Quan sát nhiều chi tiết cùng loại hoặc lặp đi lặp lại, ta thấy nó có một lớp ý nghĩa nào đó – bởi tác giả quan tâm và rung cảm với nó.
II – Tìm hiểu chi tiết nghệ thuật trong một số tác phẩm
  1. 1.      Chi tiết trong hai bài thơ Nguyễn Trãi
                         Mộ xuân tức sự   暮春即事
闲中尽日闭书寨
门外全无 俗客来
杜宇声中春向老
一庭初雨楝花开

Nhàn trung tận nhật bế thư trai
Môn ngoại toàn vô tục khách lai
đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão
nhất đình sơ vũ luyện hoa khai
o                

(cảm tác) trước việc cuối xuân
Thong thả trọn ngày đóng cửa phòng sách
Ngoài cửa không hề có khách tục đến
Trong tiếng đỗ quyên kêu nghe xuân đã về già
cả sân hoa xoan nở dưới mưa phùn.dịch thơ
Trọn ngày thong thả khép phòng văn
khách tục bên ngoài chẳng bén chân
Khắc khoài quyên kêu xuân đã muộn
Hoa xoan mưa nhẹ nở đầy sân
Trại đầu xuân độ  头春渡 
“Bến đò xuân đầu trại”


渡头春草绿如烟
春雨添来水拍天
野径荒凉行客少
孤舟镇日搁沙眠Độ đầu xuân thảo lục như yên
Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên
Dã kính hoang lương hành khách thiểu
Cô chu trấn nhật các sa miên
O

Cỏ xuân đầu bến biếc như mây
Thêm lại mưa xuân trời nước đầy
đường nội vắng teo hành khách ít
thuyền côi gác bãi ngủ thâu ngàyĐầu bến, cỏ xuân xanh như khói
lại thêm  mưa xuân nước vỗ ngang trời
Đường ngoài nội vắng teo ít người đi
thuyền đơn côi suốt ngày gác đầu lên bãi mà ngủ
Ức Trai thi tập (Đào Duy Anh dịch)
Khung cảnh tạo nên bởi: cỏ xanh, bến xuân, mưa xuân, nước lẫn trời, đường đồng quạnh quẽ khách, con đò gối bãi, phòng văn, tiếng cuốc, hoa xoan… Tất cả cảnh ấy có tính chất vĩnh viễn – dấu hiệu của cuộc sống vĩnh hằng, tươi trẻ, đầy sức sống. Cũng như bài “Nghe mưa” của Nguyễn Trãi, tiếng mưa nghe như bất tận dù khi đứt nối, khi theo chuông vào giấc mơ. Mưa chỉ là tín hiệu của một vũ trụ đang vận hành không ngừng nghỉ… Nhìn chung các nhà thơ cổ điển ưa được tắm miình vào nhịp sống êm đềm, tự nhiên của thiên nhiên vũ trụ.
Chi tiết trong thơ cổ trở thành/ đồng hoá với ngôn ngữ thơ. Nhà thơ nói bằng chi tiết (chẳng hạn: lối xưa xe ngựa hồn thu thảo). Nói cách khác, ngôn ngữ thơ ca cổ điển là ngôn ngữ thiên nhiên. Đôi khi có ngoại lệ, ví dụ một số bài thơ của Đỗ Phủ và Nguyễn Du. Hãy đọc Những điều trông thấy của Nguyễn Du và Thạch hào lại của Đỗ Phủ .
  1. 2.            Chi tiết đời thường – sinh hoạt trong hai bài thơ của Đỗ Phủ và Nguyễn Du
Cảnh nghèo khổ đói cơm của một người mẹ và ba con cùng với cảnh quan lại no say phè phỡn phung phí một bữa tiệc lớn (Sở kiến hành), Nguyễn Du viết một kí sự để tố cáo, oán trách.
Còn Đỗ Phủ viết Thạch hào lại tả cảnh nha lại đang đêm đi bắt lính và phu ở một gia đình có hai ông bà già, con dâu quần áo tả tơi đang cho con bú. Bà già van nài, ông già nhảy tường trốn. Nhà đã có ba con trai đi lính, hai đứa chết trận. Tất cả các chi tiết của hai bài thơ đều là hiện thực trần trụi hiếm có trong thơ cổ điển. Nhưng nó vẫn tuân theo thi pháp cổ, nghĩa là nó phiếm chỉ, tượng trưng, là tín hiệu báo một hiện trạng xã hội phong kiến mục nát… Chúng ta nhận thấy rằng hai nhà thơ cổ điển kiệt xuất đã đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực sau này.
  1. Hai loại chi tiết trong “Nhớ rừng”
Một lớp cảnh hồi tưởng ngày xưa thời oanh liệt của con hổ. Một lớp chi tiết giả tạo, tù hãm của vườn thú. Hai lớp chi tiết tương phản nhau gay gắt nói lên cảm xúc mãnh liệt của nhà thơ.
  1. Chi tiết trong “Đoàn thuyền đánh cá”
Những cảnh biển đêm trăng, cảnh đánh cá từ chiều tối đến sáng hôm sau. Nhưng bài thờ không nhằm thuật chuyện lao động đánh cá. Bài thơ thực là ca khúc cũa tâm hồn ngư dân trên biển cả thời hoà bình. Đó là bài ca lao động biểu hiện trạng thái tâm hồn ngư dân say đắm phóng khoáng, hào hứng tự chủ. Những chi tiết ấy vẽ ra nhiều lớp nghĩa: thiên nhiên tươi đẹp của tổ quốc, lao động hăng say – trạng thái tâm hồn thoải mái, trong đó chủ đạo là tâm hồn. Câu hát căng buồm cùng gió khơi – gió làm căng buồm, câu hát càng làm căng buồm hơn nữa!
  1. Chi tiết màu sắc trong tác phẩm văn học
Những hình ảnh màu sắc cũng đáng chú ý như một hiện tượng thi pháp chứ không phải ngẫu nhiên. Khoa thống kê học cho biết mỗi nhà văn có một bảng sắc màu riêng. Một công trình nghiên cứu ở Nga cho biết bảng màu sau đây:
-         Ba màu cơ bản: đỏ – vàng – vàng kim được dùng nhiều hơn cả trong văn học Nga truyền thống thế kỉ 19. Trong đó màu đỏ được dùng nhiều nhất, kế tới vàng kim. Bảng màu Pushkin cao nhất là vàng kim sang trọng quý phái, Dostoievski và Tolstoi dùng đỏ nhiều, kế đến vàng thông thường.
Khảo sát Truyện Kiều, thấy bảng màu của Nguyễn Du:
+ Vàng kim 30,25 %
+ Hồng đào thắm 30,25%
+ Xanh 10,80%
+ Bạc   7,60%+ Vàng  6.60%
Bảng màu của Nguyễn Du dồi dào màu sắc tươi thắm, sang trọng quý tộc (vàng kim), khoẻ mạnh, hạnh phúc, tình bạn (màu hồng) cũng là tình yêu nồng nàn quyến luyến tin cậy.
Trong Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, tỉ lệ hồng và đào thắm cao nhất : người cung nữ dù bất hạnh vẫn ước mơ lầu son gác tía, tin vào hạnh phúc có thật ở đời và tình yêu vẫn tràn trề tươi sáng.
“Chinh phụ ngâm” màu xanh chiếm số lượng cao nhất (37,40%) là màu đồng quê, núi non quan ải, màu xa xôi biền biệt nhớ mong.
            “ Dế mèn phiêu lưu lí” – cánh đồng quê hiện lên trong bức tranh giàu màu sắc đầy sức sống …
  1. Chi tiết âm thanh trong văn học
Âm thanh cũng là tín hiệu của thế giới. Tuy nó xuất hiện ít hơn màu sắc (chỉ có một số thứ phát ra được âm thanh, còn màu sắc thì hầu như thứ gì cũng có), nhưng lại có sức vang động biểu cảm, gợi ý mạnh hơn. Có nhiều kiểu âm thanh khác nhau nhưng có lẽ tiếng đàn tạo ra hình tượng âm thanh giàu sức biểu đạt nhất (không kể tiếng người). Đó là những giai điệu đã được nghệ thuật hoá một bậc rồi.
Bài thơ “Tỳ bà hành” nổi tiếng của Bạch Cư Dị và những đoạn thơ Kiều tả tiếng đàn, người đọc biết rằng: tiếng đàn là những chi tiết biểu lộ tâm sự người kĩ nữ và Thuý Kiều. Tiếng đàn của kĩ nữ bến Tầm Dương diễn tả mọi thứ, từ trận mưa đến cảnh chiến trận, từ tiếng chim vui bạn đến cuộc đời dở dang vì biến cố:
Dây to nhường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
… Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành ngừng dứt
… Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lụa, lựa vào bốn dây.
Còn tiếng đàn Kiều cũng lạ lắm:
Trong như tiếng hạc bay qua
Đục như nước suối mới sa nửa vời.
 
 
Phải chăng tiếng đàn bạc mệnh báo trước thân phận long đong chìm nổi, khi thanh cao như chim hạc (đi tu) khi nhục nhã ở chốn lầu xanh (đục như nước suối).
Xuân Diệu có cảm giác màu sắc rất mạnh mẽ:
Này lắng nghe em khúc nhạc thơm
Này lắng nghe em khúc nhạc hường (hồng)
Dẫn vào thế giới của du dương

Hãy nghe lẫn lộn ghé bên tai
Giọng suối lời chim tiếng khóc cười
Hãy uống thơ tan trong khúc nhạc
Ngọt ngào kêu gọi thuở xa khơi.
  Những nhà văn lớn như M.Gorki, Tolstoi, Nguyễn Tuân đã có những trang miêu tả tiếng đàn như tiếng người, tiếng tâm hồn nhân vật. Tất nhiên trong ấy có cả xúc cảm người nghe phụ hoạ cùng. Càng về thời hiện đại, tiếng đàn càng miêu tả phong phú tâm hồn người.
  1. Chi tiết đồ vật
  Đồ vật cũng là chi tiết nghệ thuật quan trọng. Như vũ khí được miêu tả nhiều trong sử  thi Hy Lạp, đặc biệt chiếc khiên cũa hiệp sĩ. Truyện Hồng Lâu Mộng có cả một thế giới đồ vật mà nhà văn tốn nhiều công phu miêu tả chẳng phải ngẫu nhiên hay tùy hứng. Trước hết là cách ăn mặc trang điểm của các công tử, tiểu thư, a hoàn… Đặc biệt viên ngọc “Thông ling bảo ngọc”của Giả Bảo Ngọc và chiếc lắc khoá cổ (dây chuyền) của Bảo Thoa  bằng vàng, hai thứ hợp thành “Kim ngọc lương duyện” khiến Bảo Thoa hi vọng, còn Lâm Đại Ngọc mặc cảm thân phận “mộc” (lâm/cây) sao sánh được với “ngọc” ám ảnh đè nặng tâm can. Bảo Ngọc rất coi thường viên ngọc, khi giận còn dứt ra ném đi (vứt ngọc, đập ngọc) – thái độ của cậu mang đầy ý nghĩa. Khi mất ngọc, câu chuyện đi vào kết thúc bi thương, tuyệt vọng. Còn có một lớp đồ vật khăn áo, túi thơm, vòng đeo, đèn lồng của tiểu thư, a hoàn rất đáng chú ý. Thế giới đồ vật phong phú trong Hồng Lâu Mộng đóng vai trò đáng kể góp phần vẽ chân dung nhân vật, phong tục tập quán, tín ngưỡng, khiếu thẩm mĩ, tính cách nhân vật – tóm lại thể hiện cả một thế giới tinh thần.
 Ở Việt Nam, nhà văn Nguyễn Tuân nổi tiếng về nghệ thuật miêu tả đồ vật. Ông dùng đồ vật để tả người, lai lịch nhân vật, thậm chí cả lịch sử. Miêu tả đồ vật nhưng khắc hoạ được thế giới tinh thần (chiếc gông đen bóng, nặng trịch, đầy rệp, tấm lụa trắng và nét chữ của Huấn Cao), cái bình pha trà, cây đàn… trong tập truyện Vang bóng một thời, Chùa Đàn, Chiếc lư đồng mắt cua).

(còn nữa)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét