Thứ Năm, 7 tháng 6, 2012

Lá bùa hộ mệnh - Puskin ( Văn Khôi dịch )

Nơi biển ngày đêm sóng dạt dào
Bọt tung trắng xoá trùm bờ cao
Vằng vặc trăng ngân soi ấm áp
Màn đêm yên ả ru ngọt ngào
Nơi trong cung cấm chúa dân Hồi
Đêm ngày đùa cợt gái xinh tươi
Một ngày cánh tay mềm nàng tiên nữ
Lá bùa hộ mệnh đã trao tôi

Nàng kề sát môi, giọng dịu êm:
"Anh gắng giữ gìn lá bùa em
Bởi tình nồng cháy em trao đó
Cùng phép nhiệm màu xưa bí truyền
Bùa em chẳng phù anh thoát được
Bão táp, phong ba, nấm mồ sâu
Đầu anh đòn thù kia hiểm độc
Chẳng thể chở che tránh nổi đâu

Bùa em không thể thoả lòng mong
Vàng bạc châu báu của phương Đông
Chẳng ban cho anh đàn đệ tử
Phục tùng ngoan ngoãn tháng năm ròng
Bùa em không thể chắp cánh bay
Đưa anh thoát chốn sâu ải đày
Từ Nam về lại phương trời Bắc
Ngã vào thân thương những vòng tay

Nhưng nếu ả nào mắt hiểm thâm
Khiến anh mê mẩn tận thâm tâm
Kề làn môi nồng hôn đắm đuối
Mà tình trong tim vẫn lặng câm -
Thì anh yêu dấu, mảnh bùa em
Cứu anh thoát khỏi tình dối gian
Khỏi phút đắm say cùng tội lỗi
Khỏi vết thương lòng, khỏi lãng quên

Gửi Chaadaev - К Чаадаеву - Puskin ( Thúy Toàn dịch )

Sự bịp bợm của tình, mơ, danh vọng
Mơn trớn ta chẳng được bao lâu
Những trò vui ngày thơ thoáng bóng,
Như mộng đêm, như sương sớm tan mau.

Nhưng hoài bão trong ta còn cháy rực,
Cả hồn ta náo nức chờ mong
Nóng lòng nghe tiếng gọi của núi sông
Sống quằn quại dưới chính quyền hung bạo.

Trong hy vọng giày vò ta trông ngóng
Những phút giây giải phóng thiêng liêng,
Như chàng trai si tình trẻ tuổi
Đợi phút giây hò hẹn trung thành.

Khi trong ta lửa tự do rực cháy,
Khi tim ta còn sống cho thanh danh.
Người bạn hỡi, hiến dâng cho Tổ quốc
Những ngọn triều kỳ diệu của lòng anh!

Hỡi đồng chí hãy vững lòng tin tưởng:
Sao hạnh phúc nguy nga rồi hiện sáng,
Cả nước Nga sẽ bừng tỉnh cơn mê,
Ngày mai đây hậu thế viết tên ta
Trên đống vụn của chính quyền độc đoán.

Tự do - Puskin ( Thúy Toàn dịch )

Hãy xéo đi, hãy xéo khuất mắt ta,
Hỡi nữ hoàng hèn yếu đảo Xiter!
Đâu nỗi kinh hoàng của đế vương thiên tử,
Đâu nàng đâu, hỡi nàng ca sĩ,
Hỡi nàng thơ kiêu hãnh của tự do?
Hãy tới gỡ hoa vinh dự khỏi đầu ta!
Tới đập tan cây đàn thơ ẻo lả!
Ta muốn ngợi ca tự do cho trần thế,
Ta muốn đập vào những tật xấu gian tham
Đang nghiếm nhiên ngự trị trên ngai vàng...

Nàng hãy chỉ dấu vết cũ vinh quang
Của con người Gôloa cao thượng,
Người mà nàng đã gợi những lời ca hùng tráng
Giữa những cơn bão tố kinh hoàng.
Bay run lên! Lũ chuyên quyền bạo chúa,
Lũ cháu con của số phận đa đoan!
Còn các anh em, đám nô lệ lầm than,
Hãy dũng cảm, lắng nghe và đứng dậy!

Hỡi tên vua chuyên quyền bạo ngược!
Ta căm ngươi, ngôi báu của ngươi,
Ta thấy trước với niềm vui cay độc
Cái chết của ngươi, của cháu con ngươi.
Thế gian sẽ thấy trên trán tên bạo chúa
Dấu vết của người đời nguyền rủa,
Ngươi là mối kinh hoàng trên cõi thế gian,
Lời nguyền rủa của Chúa Trời trên mặt đất.

...
Và giờ đây các ngươi ghi nhớ lấy:
Dù tội tình hay khao thưởng đền bù,
Dù bệ thờ hay máu thảm ngục tù
Đều không phải bức tường thành vững chắc!
Ngươi hãy là kẻ đầu tiên cúi mặt
Dưới bóng thần của luật pháp công minh,
Tự do nhân dân và cuộc sống thanh bình
Sẽ là kẻ đứng canh muôn đời bên ngôi báu.

Làng - Puskin

Làng
Ta chào ngươi,hỡi mảnh đất cô đơn
Nơi nương tựa của bình an,lao động
Nơi cảm hứng chảy dạt dào lai láng
Nơi đời trôi giữa hạnh phúc lãng khuây.
Ta của ngươi - ta đã trở về đây
Từ bỏ chốn thượng lưu bệnh hoạn
Những cuộc vui chơi xa hoa chè chén
Trở về đây với tiếng lá hàng sồi
Với ruộng đồng bằng lặng thảnh thơi
Người bạn gái hiền giúp cho ta mộng tưởng
Ta của ngươi - yêu biết mấy thửa vườn xanh thắm
Với muôn hoa và bóng mát dịu dàng
Đồng cỏ xanh những đụn rạ ngát hương
Lạch suối trong giữa bụi bờ róc rách
Trước mắt ta kìa bao bức tranh linh hoạt
Đây bao la hai hồ nước trong xanh
Nơi đôi khi thuyền cá thoáng cánh buồm !
Sau hồ nước là đồi và ruộng đồng ngang dọc
Xa xa nữa những mái lều lác đác
Bò thẩn thơ bên bãi vực phì nhiêu
Những sân phơi mù bụi,cối xay gió cánh diều !
Chốn chốn làm ăn đủ đầy sung túc
Ta về đây thoát khỏi thế đời câu thúc
Học tìm tòi hạnh phúc trong chân tình
Với tâm hồn tự do ta theo phép nước luật hình
Đem ân tình đáp lại lời e dè cầu khẩn
Không còn bận tai nghe bọn ngu lảm nhảm
Chẳng tỵ hiềm với chức phận đứa gian thần
Hay thằng ngu kia trong uy vũ xênh xang.

Hỡi các đấng thần linh,tôi xin hỏi !
Giữa nơi đây u tịch tôn nghiêm
Tiếng huyền diệu nghe thấy rõ thêm
Tiếng nói ấy xua tan chây lười ác mộng
Khơi ngọn lửa hăng say lao động
Nguồn cảm linh sáng tạo của các người
Trong lòng ta đọng lại chín muồi.

Nhưng nơi đây có một điều khủng khiếp
Làm lòng ta se lại xót xa
Giữa ruộng đồng đồi núi nở hoa
Người bạn của nhân quần buồn rầu nhận thấy
Cảnh dân tình u tối lầm than
Cả một bầy thống trị dã man
Không nhân nghĩa,không tình,không lý
Mặc nước mắt rơi,mặc lời rên rỉ
Chúng sinh ra để hủy hoại sinh linh
Dùng đòn roi áp bức chiếm cho mình
Cả lao động,thời gian,của cải
Theo luống cày còng lưng tê tái
Dưới làn roi khổ nhục ê chề
Đám nông nô xơ xác chân kéo lê
Trên luống đất bọn chủ nô tàn ác
Ách nặng nề kéo lê cho tới chết
Không dám nuôi chút hoài bão ước mơ
Những cô gái nơi đây trinh tiết ngây thơ
Bọn quỷ đem mua vui trong chốc lát
Chốn tựa nương của cha già khi tuổi hạc
Những người con trai,bạn hữu của ruộng đồng
Phải bỏ cửa nhà lũ lượt đến cho đông
Đám đầy tớ tôi đòi phờ phạc
Chao ôi,giá tiếng thơ tôi rung động trước lòng người ?
Sao tim tôi vẫn cháy một nhiệt tình vô bổ
Sao trời không cho tôi tài hùng biện để làm nên dông tố ?

Các bạn ơi,tôi có thể thấy được chăng !
Ngày nhân dân cởi tròng thoát ách
Cảnh nô lệ theo lệnh vua xóa sạch
Và bình minh rực rỡ của tự do
Có chiếu rọi trên trời tổ quốc ?

1819

Chủ Nhật, 3 tháng 6, 2012

Văn học phương Tây - Chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực

Chương 1.          CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TÂY ÂU

1  Văn học Pháp
1.1  Chủ nghiã cổ điển “mới” và âm vang văn học cách mạng tư sản
Trong những năm đầu của Cách mạng Pháp (1789-1794), chủ nghĩa cổ điển lại xuất hiện và ngự trị nền văn học. Dòng văn học này tiếp tục khuynh hướng quay về nghệ thuật cổ đại và có nhiều nét chung với chủ nghĩa cổ điển trước cách mạng. Nhưng về nội dung ý thức hệ, nó hoàn toàn khác biệt.
Chủ nghĩa cổ điển “mới”sau Cách mạng phản ánh cuộc đấu tranh của đẳng cấp thứ ba nhằm đạt được tự do chính trị và quyền bình đẳng trong xã hội mới sau khi đã lật đổ giai cấp phong kiến quí tộc. Nó miêu tả những thắng lợi của cách mạng và niềm hân hoan của nhân dân đặt lợi ích chung trên lợi ích riêng tư. Xã hội tư sản mới ra đời cũng cần một chủ nghĩa anh hùng để biểu dương và củng cố chế độ mới. Nhưng những nhân vật tư sản cũng sớm bộc lộ những mặt trái của họ nên nhà văn muốn dựa vào những hình tượng cổ đại. “Họ tìm thấy trong những truyền thống cổ điển của nền cộng hoà La Mã những lí tưởng về hình thức nghệ thuật, những ảo tưởng mà họ cần thay thế cho những nội dung hạn chế tư sản nhằm duy trì sự hân hoan của tấn bi kịch lớn lao” (K.Marx).
Từ đó hình thành các thể loại đa dạng như bi kịch cổ điển, tụng ca, trào phúng,  bài ca cách mạng.
Cách mạng đã đóng cửa các phòng khách thính văn nghệ (salon), phát triển báo chí để tạo nên dư luận công chúng mới, mở rộng diễn đàn cho các cuộc tranh luận với thể loại mới : văn hùng biện chính trị, xuất hiện một số nhà hùng biện tài năng như Mirabeau.
1.2 Văn học lãng mạn Pháp phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong khoảng giữa hai cuộc Cách mạng (1789 và 1848).  Ðúng như nhận định của Marx, khuynh hướng lãng mạn là  sự phản ứng đầu tiên đối với Cách mạng Pháp và tư tưởng Ánh sáng gắn liền với cuộc cách mạng đó .
Văn học lãng mạn đã kế thừa các nhân tố sau :
Chủ nghĩa tình cảm, một tư trào văn chương thế kỷ 18 ra đời nhằm cân đối với tính lý trí của văn học Ánh sáng 18 vốn nặng về lý trí.
Về triêt  học, chủ nghĩa lãng mạn chủ yếu mang tính duy tâm chủ quan. Đặc biệt văn học lãng mạn chịu ảnh hưởng khá sâu của  học thuyết “chủ nghĩa xã hội không tưởng“ của Owen và Furier.
Về nghệ thuật, thiên về tính trữ tình yêu thiên nhiên như một phương thức giải thoát  thư giãn, phản ứng với hiện thực xã hội ngột ngạt bon chen.
Văn học lãng mạn vẫn có chú ý ít nhiều đến hiện thực đau khổ của người lao động.
Nghệ thuật xây dựng nhân vật chưa chú ý xây dựng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, nó là cá nhân dị biệt, ngẫu nhiên, bất chấp sự vận động của hoàn cảnh khách quan.
Tính chất nhân đạo tràn ngập các tác phẩm lãng mạn.
    Các tác giả tiêu biểu
Bà De Stan (1767-1817)- nhà tiểu thuyết
Ở đầu thế kỉ, bà là nhà văn góp phần định hướng cho nền văn học mới về mặt lí luận. Bà đã khẳng định những ưu thế của xúc cảm trong văn học và mở ra chân trơi của sự giải phóng văn học khỏi những qui phạm của chủ nghĩa cổ điển. Bà đã mở rộng ý niệm về cái đẹp khi quan tâm đến những kiệt tác văn chương của nước Pháp và các dân tộc khác. Bà có khả năng kết hợp sự hiểu biết và sáng tạo khi giới thiệu văn học Ðức với công chúng Pháp qua những tác phẩm lí luận và hai cuốn tiểu thuyết lãng mạn “Delphin” và “Corin hay là Italia”, chỉ ra nội dung tình cảm cao thượng và chất trữ tình tràn trề, sống động của nó. Trong một bức thư gửi W.Goethe, nhà văn Schiller viết : “không có gì là vay mượn, sai lạc và yếu đuối ở bà Stan, bà là tinh thần Pháp đầy trí tuệ và thuần khiết. Bà muốn soi sáng, thâm nhập, đo lường tất cả. Bà không chấp nhận một điều gì tối tăm và tắc tị. Bà kinh sợ chủ nghĩa thần bí và sự mê tín”.
Chateaubriand (1768-1848) – nhà văn
Nhà văn lớn thứ hai mở đầu chủ nghĩa lãng mạn là Chateaubriand.
Ông là nhà văn tiêu biểu của khuynh hướng  lãng mạn tiêu cực ở Pháp. Xuất thân dòng dõi quí tộc, rơi đất nước sau cách mạng và năm 1791 ông đến Bắc Mĩ với danh nghĩa tham gia một cuộc thám hiểm khoa học. Năm 1792 ông trở về nước, tình nguyện gia nhập quân bảo hoàng chống lại cách mạng. Bị thương ở Tiongvin, ông say sưa trú ngụ ở nước Anh. Ông đối lập với Ðế chế I vì họ không chấp nhận khuynh hướng chính trị quá khích và bảo thủ của ông. Thời Trung hưng, ông được cử làm sứ thần ở London và một thời gian làm bộ trưởng ngoại giao. Thực hiện chính sách phản động của hoàng tộc Bourbon, năm 1823 ông chủ trương đàn áp cách mạng Tây ban nha. Ông được bầu vào Viện Hàn lâm năm 1811 và rời bỏ chính trường sau Cách mạng tháng Bảy 1830.
Năm 1787, Chateaubriand đã xuất bản ở London tác phẩm Tiểu luận lịch sử chính trị và đạo đức bàn về những cuộc cách mạng cũ và mới, nhận thức trong những mối quan hệ với Cách mạng Pháp. Trong tác phẩm này, ông chỉ ra ảnh hưởng của các triết gia thế kỉ 18 đối với bản thân ông. Ông ca ngợi nhận thức tự nhiên của Rousseau và vận dụng tư tưởng duy lí để chống lại niềm tin Thiên chúa giáo. Thế nhưng ông vẫn thù địch với Cách mạng, không tin vào sự tiến hoá của lịch sử nhân loại như các nhà tư tưởng Ánh Sáng. Ông bảo vệ tàn tích của chế độ phong kiến và hồi phục cảm hứng tín ngưỡng trong nhiều tác phẩm: Atala (1801). Thần lực sáng tạo của đạo Gia tô (1802), Những người tử vì đạo (1809) và đặc biệt Reunet (1802) ông miêu tả chàng quí tộc Reunet bỏ nước Pháp sang châu Mĩ sống với bộ lạc da đỏ và thích nghi với đời sống cộng hoà nguyên thuỷ.
Ông ca ngợi đạo Gia tô: “Trong tất cả những tôn giáo đã tồn tại thì đạo Gia tô thơ mộng nhất, nhân đạo nhất, hoà hợp nhất với tự do, nghệ thuật và văn chương; tất cả thế giới đều cần đến nó, từ công việc nông trang cho đến những khoa học trừu tượng, từ những nhà cứu tế cho kẻ khốn cùng đến những cung điện do Mikenlangelo xây dựng và Raphael trang hoàng”. Ông đối lập nền nghệ thuật Thiên chúa giáo với nghệ thuật cổ đại, cho rằng nghệ thuật thiên chúa  của thời trung đại phong kiến đã thể hiện sự xung đột giữa khát vọng tinh thần và bản năng con người, đã “thuần khiết hoá” con người. Với giọng văn hài hoà, du dương đầy nhạc điệu, ông thể hiện căn bệnh của thời đại và nỗi buồn nản do bao điều hi vọng tan vỡ của một thế hệ quí tộc và tiểu tư sản bảo thủ trong những tiểu thuyết Atala, Reunet. Atala tiêu biểu cho cuộc đấu tranh giữa niềm tin tôn giáo và dục vọng trần tục. Atala day dứt đau khổ vì vừa yêu Sacta vừa muốn giữ trọn lời thề hiến dâng cuộc đời cho Chúa.
 Chateaubriand là nhà văn lãng mạn có ảnh hưởng rộng rãi ở Pháp và châu Âu thế kỉ 19 khi ông khai thác sâu cái tôi cô đơn qua các hình tượng sống động và những trang văn xuôi đổi mới, lưu loát và đầy chất thơ.
Từ những năm 20, phong trào văn học lãng mạn ở Pháp đã phát triển mạnh mẽ với các nhà văn nổi tiếng: Lamartine, Vigny, Hugo, G.Sand và Musset.
Anfonce de Lamartine (1790-1869) – nhà thơ
Là nhà thơ tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Xuất thân trong gia đình quí tộc sa sút, Lamartine sống thời thơ ấu ỏ trại ấp của cha, lớn lên đi học trường trung học công giáo. Dưới thời Trung hưng ông gia nhập quân đội một thời gian ngắn, sau đó làm lãnh sự ở Italia. Mối tình với bà July ở Paris, nhưng một năm sau July chết vì bệnh. Lamartine làm những tập thơ trữ tình nổi tiếng như: Trầm tư (1802), Trầm tư mới (1823), Những hài hoà (1830). Các tác phẩm thơ bộc lộ tâm tình của Lamartine qua các thời kì khác nhau: nỗi đau đớn trước cái chết của người yêu trong các bài thơ Bên hồ, Sự bất tử, nỗi cô đơn trong bài “Một mình”, nỗi nhớ khôn nguôi trong “Chiều kỉ niệm”, “Thung lũng nhỏ”, “Mùa thu”, niềm tin tôn giáo trong Niềm tin, Tuần lễ thánh, Chúa, Lời cầu nguyện. Lamartine là người khai phá một giọng thơ ca mới, nhà thơ trữ tình xuất sắc về thiên nhiên gắn với tâm tình con người, là sự gặp gỡ những tâm hồn đồng điệu.
Sau Cách mạng tháng Bảy năm 1830, Lamartine tham gia các hoạt động chính trị với tư cách là đại biểu Viện lập pháp. Ðến cách mạng tháng Hai 1848, ông đứng đầu nhà nước của phái tư sản ôn hoà. Sự nghiệp chính trị của ông kết thúc sau cuộc Cách mạng tháng Sáu 1848 khi giai cấp tư sản phản động đàn áp đẫm máu quần chúng khởi nghiã. Về già, ông còn làm việc vất vả để trả nợ. Tác phẩm Giojelain (1836) là một trường ca hai ngàn câu thơ nhằm tái hiện số phận kịch sử của toàn nhân loại. Nhân vật trữ tình Giojelain tượng trưng cho sự đấu tranh của tâm hồn con người vươn tới Thượng đế bằng sự thanh khiết hoá trong nỗi đau khổ.
Alfred De Vigny (1797-1863) – nhà thơ
Xuất thân trong một gia đình quí tộc phá sản vì Cách mạng. Chế độ Trung hưng đem lại hy vọng ông có thể tiến thân trong quân đội. Là sĩ quan có nhiệm vụ canh giữ ở biên giới, chẳng bao lâu ông xin từ chức vì không còn khát vọng chinh chiến như thời Napoleon. Vigny bắt đầu sáng tác từ 1820 và dần dần nổi tiếng với các tập thơ Moise, Eloa, Saint Mac, Stenle, Saterton, Daphnee, Vigny hướng về thời đại cổ xưa tìm đề tài như thơ ông đã mô tả số phận nhà quí tộc trẻ tuổi Richielieur hoặc các bậc tiên tri trong Kinh thánh. Phản ứng với thắng lợi của Cách mạng, rồi lại bất mãn với chế độ Bourbon, ông đi tìm nhân vật trong quá khứ để thể hiện thái độ hoài nghi và bi quan. Suy tưởng về thân phận con người, ông cho rằng con người không thể tránh được định mệnh thần bí. Nhân vật của ông đều thất bại, ngã xuống như Saint Mac, cô đơn với thiên tài như Moise, đơn độc như Siva, chìm đắm trong tình yêu như Samson ”Nhà thơ thì cảm thấy thiên nhiên hoang vắng, lạnh lùng; Chúa thì câm, mù, điếc trước tiếng kêu của chúng sinh. Ai có cuộc sống cao thượng thì đau khổ nhiều”. Vigny đưa ta một triết lí thất vọng, ca ngợi sự nhẫn nhục và sự yêu thương, khắc kỉ, hư vô chủ nghĩa.
George Sand (1804-1876) – nhà tiểu thuyết
Tên thật của nữ văn sĩ là Aurore Dupin, xuất thân dân nghèo thành thị. Sớm mồi côi cha, Dupin được bà nội nuôi ăn học ở miền quê. Năm 18 tuổi, Dupin kết duyên với bá tước Davant nhưng cuộc sống bất hạnh. Tám năm sau li thân, bà về Paris theo nghề văn và nuôi hai con. Những tiểu thuyết thời trẻ như Indiana, Lelia, viết về đề tài tự do yêu đương, bênh vực nữ quyền, bình đẳng nam nữ trong hôn nhân và gia đình. Giai đoạn sau, bà viết những tiểu thuyết thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của người đau khổ, mô tả cuộc đấu tranh của họ chống áp bức bất công. Bà nhìn thấy sự vươn dậy của quần chúng lao động và phê phán ách nô dịch của đồng tiền tư bản chủ nghĩa. Tuy vậy nữ văn sĩ George Sand vẫn mơ ước giải hoà xung đột giai cấp bằng tình thương yêu.
Alfred De Musset (1810-1857) – nhà thơ
Xuất thân trong một gia đình có truyền thống văn học và không phải trải qua khủng hoảng trước thắng lợi Cách mạng. Học xong trung học lúc 18 tuổi, Musset được giới thiệu vào Hội tao đàn do Hugo đứng đầu. Rất yêu văn chương và tự tin, Musset viết “Hoặc là tôi không viết gì, hoặc là Shakespeare hay Shelli”. Những vần thơ đầu tiên trong tập Truyện kể Tây ban nha và Italia được hoan nghênh nhiệt liệt. Thất vọng trước sự thắng thế của giai cấp tư sản phản động, thơ ông mất dần sự tươi vui, yêu đời, xuất hiện “mặc cảm về sự tước đoạt và sự lưu đày” của thân phận con người.
Năm 1831, ông làm công tác phê bình văn nghệ của tờ báo “Thời gian”. Cuộc tình duyên giữa Musset và nữ văn sĩ George Sand từ 1833 đến 1835 là cuộc tình duyên sóng gió và say đắm. Vì những bất đồng chính kiến, mối tình của họ đành dang dở sau những va chạm đau lòng. Musset viết bài thơ “Ðêm” nổi tiếng. Ðêm là người bạn trầm tư yên lặng nghe nhà thơ bộc bạch nỗi lòng (Các bài Ðêm tháng Năm, Ðêm tháng Tám, Ðêm tháng Mười, Ðêm tháng Chạp).
                 Con người đi học việc, sự đau khổ là bậc thầy
                 Chẳng ai tự biết mình nếu chẳng bao giờ đau khổ.
Musset còn viết tiểu thuyết Tâm sự của một đứa con thời đại, một số vở kịch (Ðêm Venise, Các cô thiếu nữ ước mơ gì ? )”
Là một trong những nhà văn lãng mạn tiến bộ đầu tiên, với “trái tim hào hiệp” Musset căm ghét chế độ chuyên chế và say mê tự do, suốt cuộc đời ông đi tìm lí tưởng và hạnh phúc chân chính nhưng không toại nguyện.
[Xem thêm Phụ lục về cuộc tình Musset – George Sand ở cuối tài liệu này]
Victor Hugo (1802-1885)

Là nhà văn, nhà thơ lãng mạn tiến bộ của nền văn học Pháp. Trong hơn sáu chục năm sáng tác, ông đã để lại hơn 20 vở kịch, 10 tiểu thuyết lớn và truyện ngắn, 15 tập thơ, hàng trăm bài văn chính luận, lí luận văn học, hàng nghìn bức thư tình và vài ba nghìn tranh vẽ. Sự phong phú về sáng tác của Hugo bắt nguồn từ mối liên hệ của nhà thơ với đời sống rộng rãi đa dạng của nhân dân, sự tham gia trực tiếp vào các phong trào chính trị và văn hoá tiến bộ.
Những tập thơ đầu tay Ðoản thi, Về phương Ðông đã rung lên niềm yêu thương của nhà thơ lãng mạn với quá khứ xa xăm hoặc những miền xa lạ. Những tập thơ trữ tình sau năm 1830 như Lá mùa thu,Tiếng hát buổi hoàng hôn, Tiếng nói bên trong, Tia sáng và bóng tối. Ông mở rộng suy tưởng về lẽ sống, về tình đồng loại, về nỗi đau khổ và sức mạnh của nhân dân. Ðến những năm 50, viết những tập thơ chiến đấu và hùng ca như “Trừng phạt, Chiêm ngưỡng, Truyền kì các thời đại” đã vươn lên tầm khái quát xã hội, ông nhìn ra hai nước Pháp:  một nước Pháp của nhân dân nghèo khổ và một của bọn giàu sang quyền quí. Tình yêu thương con người khốn khổ bị đoạ đày như được gieo mầm khắp các tập thơ để kết đọng thành những rung động âm vang qua các hình tượng lớn trong tiểu thuyết và kịch của Hugo. Sự kết hợp tài tình giữa các yếu tố nghệ thuật đó đã giao hoà tình thương cảm giữa tác phẩm và bạn đọc, gây ấn tượng mạnh mẽ về tấm lòng nhân đạo bao la của nhà văn.
Hugo bênh vực người da đen cầm đầu nghĩa quân chống lại bọn thực dân da trắng và những luật lệ khắc nghiệt… Trong tác phẩm “Nhà thờ Đức bà Paris”, Hugo ca ngợi tình thương yêu của những con người bình thường: cô vũ nữ Esmeralda, anh gù kéo chuông Quazimodo. Tác phẩm “Những người khốn khổ” miêu tả những tình cảm đau lòng dưới đáy xã hội Pháp với cả chiều rộng và chiều sâu. Hugo hi vọng giải quyết ba vấn đề “Sự sa đoạ của đàn ông vì bán sức lao động, sự truỵ lạc của đàn bà vì đói khát, sự cằn cỗI của trẻ thơ vì tối tăm”. Những con người bị vùi dập hiện ra trong tác phẩm với những vẻ đẹp cao cả.  Những rung động đầy chất thơ và sự suy tưởng khát vọng xoá bỏ nỗI đau khổ của loài người.
Nhà văn tin rằng lòng thương yêu tuyệt đối có khả năng tiêu diệt cái ác và mang lại hạnh phúc cho những người khốn khổ.


Về phần văn học này ai muốn đọc thì vào link này của chú Giangnamlangtu nhé ;)

Click vào đây nào ;)


Mai thi xừ rồi , giờ plb mới học =)) , mai mà ko trúng tủ là tạch luôn. Chúc mọi ng` thi tốt ;)



GỢI Ý PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VÀ TÁC PHẨM Donkihote nhà quý tộc tài ba xứ Mantra

GỢI Ý PHÂN TÍCH NHÂN VẬT VÀ TÁC PHẨM

1 / Bối cảnh đời sống văn học  Tây ban nha trước khi tác phẩm ra đời .

Hồi ấy sách tiểu thuyết hiệp sĩ tràn ngập thị trường Tây ban nha và Tây Âu, gây nhiều tác hại cho công chúng  và gây phẫn nộ đối với chính luậ . Những độc giả đam mê sách này bỏ công việc, hao tiền tốn của, vùi đầu vào những truyện hoang đường phi lí. Thị hiếu thẩm mĩ của người đọc bị méo mó lệch lạc. Hình tượng hiệp sĩ giang hồ phóng đãng làm nảy sinh lối sống tai hại cho trậy tự an ninh xã hội. Vua Tây ban nha là Charler Cing ra lệnh cấm đọc loại tiểu thuyết đó nhưng ông vẫn lén lút đọc say mê. Các nhà tu hành cũng chẳng kém. Sách hiệp sĩ vẫn cứ lưu hành. Mãi đến khi cuốn Don Quijote xuất hiện thì loại tiểu thuyết hiệp sĩ mới mất hết độc giả. Dĩ độc trị độc !  Dư luận nồng nhiệt ca tụng cuốn tiểu thuyết châm biếm sâu sắc này. Lần đầu tiên trong đời nhà văn Cervantes đón nhận thành công và cảm thấy được an ủi cho cuộc đời vất vả chịu đựng bất công của mình.

2 /  Giá trị của tác phẩm Don Quijote
- Chôn vùi một thể tài tiểu thuyết hiệp sĩ trung cổ có hại cho công chúng .
-          Góp một cuốn tiểu thuyết mới với nội dung nhân đạo chủ nghĩa , bênh vực quyền sống  con người. Đằng sau một hài kịch là bi kịch của người nghệ sĩ chân chính trong cuộc Phục Hưng
-          Xây dựng tiểu thuyết hiện thực, Don Quijote miêu tả hiện thực đất nước TBN khổ cực, nhiễu nhương, rối loạn dưới sự cai trị của phong kiến và tăng lữ, lấp ló một bọn người khác sắp vào cuộc áp bức  con người- gã tư sản.
-          Biểu dương những tư tưởng mới mẻ tiến bộ của thời đại mới  khi trình bày những vấn đề tôn giáo, xã hội, nghệ thuật, tình yêu hạnh phúc.

3/  Phân tích nhân vật

Don Quijote:
Don Quijote vẽ ra một  kẻ ham mê đọc sách hiệp sĩ nên bị đầu độc, kẻ chỉ biết sách vở mà không biết gì đến hiện thực khách quan rồi sẽ thất bại.

Tiểt thuyết miêu tả sự không ăn khớp giữa lí tưởng hiệp sĩ trung cổ với hiện thực đang tư sản hóa .

Hai giá trị song song tồn tại trong tác phẩm: sự điên rồ của hiệp sĩ và những thất bại cay đắng liên miên của y diễn ra cùng với hiện thực đen tối của đất nước. Hình ảnh Don Quijote tượng trung cho đẳng cấp tăng lữ và giai cấp phong kiến cố sức lấy cái lí tưởng cũ kĩ ngoan cố chống lại tư tưởng Phục Hưng, như chàng hiệp sĩ Don Quijote vậy thôi  Một chi tiết tiêu biểu: kị sĩ vác giáo đánh cối xay gió, bị cối xay quật ngã. Kẻ vác giáo thất bại, còn lịch sử vẫn tiến lên (bánh xe lịch sử vẫn quay !) .

Nhà văn còn mượn nhân vật phát ngôn cho mình những tư tưởng mới , những suy ngẫm , quan niệm về chính tri, xã hội, tôn giáo, nghệ thuật, đặc biệt là nhân sinh quan. Hãy nghe nhân vật nói những lời tỉnh táo, xúc động, thâm thúy với bác giám mã Sancho sau những lúc mộng du :

Sancho à, tự do là một trong những của cải quí báu nhất mà thượng đế đã ban cho  con người  . Vì tự do cũng như vì danh dự , có thể và cần phải hi sinh cả tính mạng nữa .Ngược lại , làm mất tự do là điều tệ hại nhất trong những điều ác của  con người .Ta nói điều này , Sancho à, bởi vì hồi nãy bữa tiệc linh đình  dành cho chúng ta trong lâu đài nọ , trước những thức ăn ngon lành và những đồ uống chắc là phải dịu ngọt ta vẫn phải chịu dày vò vì đói khát . Vì ta không được ăn uống với sự tự do như khi ta ăn uống những thứ do tự tay ta làm ra. Kẻ nào ăn miếng bánh tự tay mình làm ra mà không phải mang ơn ai bố thí là kẻ sung sướng nhất trên đời.
Những quan niệm mới mẻ khác hẳn thói phong kiến hư danh khi khuyên nhủ Sancho lên đường nhận chức quan “tổng trấn” :
Sancho à , anh phải lấy nguồn gốc nghèo nàn của mình làm vinh dự . Đừng sợ nói cho mọi người biết rằng mình xuất thân nông dân . Khi người ta thấy mình không biết hổ thẹn thì chẳng ai bới móc làm gì . Thà rằng nghèo mà có đạo đức còn hơn là quyền quí mà gian ác

 Dòng máu thì có di truyền, còn việc làm tốt đẹp thì phải trau dồi mới có. Đạo đứ , tự bản thân nó có giá trị gấp bao lần dòng máu .
Quan niệm về giai cấp như thế trong thời đại phong kiến thật là mới mẻ, nhờ có thời Phục Hưng mới có được .

Yêu chính nghĩa và đạo đức là nét tính cách của hiệp sĩ Don Quijote. Trước khi lên đường ông đã tuyên bố như vậy và luôn luôn làm như vậy :

 Có những kẻ dấn bước trên con đường đầy tham vọng và vênh vang đắc ý . Lại có những kẻ dấn mình vào nẻo tối tăm của thói xu nịnh đê tiện , có kẻ đi trên con đường đạo đức giả , lừa bịp . . . Còn ta , ta đi theo ngôi sao định mệnh trên con đường gian nan chật vật của người hiệp sĩ lang thang . Ta khinh bỉ hết thảy mọi vinh hoa phù phiếm, nhưng ta không bao giờ vứt bỏ danh dự .

Hành động và lời nói của ông đi đôi với nhau , khi được viên quận công nhường chức cho, liền nhường ngay cho bác  Sancho và một mình đi tiếp con đường đã chọn.

Về già, y tỉnh ngộ, nhưng rồi cũng rơi vào bế tắc và buồn rầu. Y chết trong sự thương tiếc của mọi người – một  con người vừa đáng cười ,đáng giận vừa đáng thương đáng quí. Thật vậy, mĩ học đã gọi Don Quijote là nhân vật bi – hài kịch của cái cũ- cái  tốt đẹp nhưng đã cũ. Một hiệp sĩ đơn thương độc mã cưỡi ngựa xông vào  cái xã hội đang tư sản hóa trùng trùng điệp điệp kia thì thất bại là hiển nhiên không tránh khỏi.

Sancho Pancha
Bác nông dân Sancho Pancha đi làm giám mã trong hai chuyến giang hồ với Don Quijote  và cuối cùng quấn quýt bên hiệp sĩ  trong những giờ phút lâm chung của  con người trong sạch và đáng quí trọng này. Bác thật xứng đáng với lòng tin cậy và yêu mến của người quí tộc già ngây thơ .

Bác là dân cày, mang trong dòng máu tính nết hồn nhiên, chất phác, thực tế và cuối cùng bác là người chiến thắng. Sau hai cuộc phiêu lưu, bác trở về có ít tiền trao cho vợ, lại thêm những đức tính tốt học được của Don Quijote: lòng yêu tự do, công bằng, chính nghĩa, lòng yêu người. Tuy nhiên, là anh nông dân tư hữu, bác cũng có những thói xấu tham lam, ranh mãnh, tính toán muốn làm giàu bằng mọi cách, kể cả thủ đoạn vặt vãnh. Bác đi theo hiệp sĩ vì lời hứa hẹn sẽ được làm quan với những quyền lợi vật chất. Khi có ít tiền bác nghĩ đến việc đi châu Phi buôn nô lệ da đen nếu hiệp sĩ lo cho bác làm “vua châu Ph ” .

May mắn thay, bác lại được đi bên cạnh Don Quijote. Lương tri cao cả của hiệp sĩ đã kìm hãm bớt cái thói hám lợi của bác, nên bác đã không sa xuống con đường tội lỗ . Khi đã chán ngán hư danh và cảm thấy chức quan không hợp với mình, bác nói :

Hãy lùi xa ra , các ngài thân mến , hãy để cho tôi trở về với ý muốn trước đây của tôi . Cho phép tôi dời bỏ nơi này , để thoát cái chết dang đe dọa tôi . Các ngài hãy thưa lại với công tước ( quận công ) rằng tôi sinh ra trần truồng . Tôi không thua cuộc mà cũng không chiến thắng – tôi muốn nói rằng khi tôi đến đây cai trị không có một đồng xu thì bây giờ khi từ giã nơi này tôi đi với hai bàn tay trắng . Những cánh chim sếu mang tôi lên tận trời cao để cho lũ chim chích và các loài chim khác mổ chết tôi, hãy bỏ nó ở chuồng ngựa. Tốt hơn hết chúng ta tụt xuống đất và đi bằng hai chân.

Hình ảnh Sancho là nhân vật tương phản với Don Quijote, tương phản từ hình dáng đến tâm hồn nhưng không đối lập mà lại hòa hợp, bổ sung cho nhau. Hai nhân vật đi bên nhau, soi sáng cho nhau và chịu ảnh hưởng lẫn nhau. Một tính cách thực tế đi bên một tính cách mộng tưởng điên rồ. Họ đã trở nên thân thiết như đôi bạn chứ không phải ông chủ và đầy tớ . Nhờ sự can ngăn rỉ rả của bác, lão Don Quijote cuối cùng cũng tỉnh ngộ. Trái lại , nhờ gần gũi nhà hiệp sĩ lãng mạn, bác nông dân thêm giàu lòng yêu người, yêu tự do công bằng và chính nghĩa. Thật ra bản chất vốn có của hai con người ấy cũng chẳng phải là ham muốn làm giàu và khao khát hư danh – đó chỉ là cái vỏ tạm thời. Cái gì đã gắn bó hai tính cách trái ngược ? – chỉ có thể là một tính cách  giống nhau căn bản giữa hai người mà thôi – ấy là truyền thống nhân văn chủ nghĩa.

Tiểu thuyết Don Quijote đặt nền móng vững chắc cho tiểu thuyết hiện thực :

Quang cảnh đât nước Tây ban nha với những làng mạc phố phường chợ búa, quán trọ  hiện lên thật sinh động dưới ngòi bút Cervantes. Mấy trăm nhân vật tiêu biểu đủ mọi tầng lớp xã hội  quí tộc, tăng lữ, nông dân thợ thuyền, lái buôn, sinh viên, kẻ cướp, gái điếm, thợ hớt tóc, gã ảo thuật rong . . . đều có mặt trong tác phẩm. Nhũng cảnh áp bức bóc lột và nhũng tệ nạn xã hội đều được phơi bày. Những lực lượng xã hội mới, những tư tưởng cải cách đòi giải phóng cá nhân đang bừng dậy … Cuốn tiểu thuyết 12 chương giúp người đời sau xem laị xã hội Tây ban nha thế kỉ 16 ồn ào náo động – xã hội quá độ từ phong kiến lên chủ nghĩa tư bản ở châu Âu.

Hai tính cách chính không đứng im bất động mà vận động theo cùng tác phẩm, sống động phức tạp. Đó là dấu hiệu cơ bản của chủ nghĩa hiện thực.

Nghệ thuật  kể chuyện của nhà văn rất phong phú, nhiều giọng điệu, khi dí dỏm bông đùa, khi trầm lắng suy tư lúc từ tốn khoan thai khi sôi nổi thúc giục, tùy theo hoàn cảnh mà biến đổi thích hợp.

Hình bóng chàng hiệp sĩ Don Quijote và bác giám mã Sancho Pancha vừa buồn cười vừa đáng yêu ấy vẫn còn đi lang thang mãi mãi khắp cõi nhân gian. Hai nhân vật bất hủ này đến với mọi người với tấm lòng thiết tha yêu tự do, lẽ phải và chính nghĩa ở đời, họ đã lên đường từ phong trào văn hóa Phục Hưng đến tận bây giờ.


sưu tầm nhé

VĂN HỌC PHỤC HƯNG ITALIA, PHÁP, TÂY BAN NHA

1 -   ITALIA NHỮNG NGỌN GIÓ ĐẦU TIÊN

QUÊ HƯƠNG CỦA VĂN NGHỆ PHỤC HƯNG  là vùng Bắc Ý nơi có các đô thị lớn như Venise, Jaine, Milan, Florence. Nơi đây kinh tế trù phú phát triển mạnh mẽ. Dân đô thị ngày càng có ý thức về vai trò địa vị của mình. Tinh thần hoạt động làm giàu trở nên đức tính tốt. Họ đòi hỏi được tự do phát triển mọi khả năng và thỏa mãn mọi ham muốn. Luồng tư tưởng mới mẻ chống ý thức hệ phong kiến và nhà thờ đã khơi nguồn cho trào lưu nhân văn chủ nghĩa tuôn chảy.

Nhà thơ Dante
Vinh quang mở đầu phong trào văn nghệ Phục Hưng Ý thuộc về nhà thơ Dante – nhà thơ cuối cùng thời Trung cổ và thi sĩ đầu tiên của Phục Hưng. Tuy còn ảnh hưởng thế giới quan nhà thờ thần bí nhưng tác phẩm của ông đã ánh lên cảm quan mới của thời đại

Tác phẩm tiêu biểu của ông là “Thần khúc” (nguyên văn là Divinascomedia) viết bằng tiếng Ý, 100 khúc với 14 226 câu thơ. Gồm bốn phần: Khúc mở đầu / Địa ngục /  Luyện ngục /  Thiên đường. Tóm tắt cốt truyện như sau:

Nhân vật Dante khi đã sống được nửa đời người một hôm ông lạc bước vào khu rừng rậm ( chỉ tình trạng tội lỗi của người đời ) . Ba con thú dữ xông tới cản đường ( báo , sư tử và chó sói : ba thói xấu kiêu căng , ghen tỵ và keo kiệt ) . May sao từ trên thiên đường , nàng Beatrice vốn là người yêu đã quá cố của Dante đã gọi nhà thơ Virgile – người mà Dante suy tôn bậc thầy – đến cứu Dantethoát ra .

Virgile dẫn Dante đi tham quan Địa Ngục, cảnh tượng âm u rùng rợn chín tầng. Vạc dầu sôi, lửa cháy ngun ngút,  tội nhân bị gặm đầu, ngụp lặn trong bể máu. Đủ mọi loại người ở trần gian chưa được rửa tội. Có một cặp tội nhân được nhà thơ thông cảm xót xa – họ là chị dâu em chồng yêu nhau vụng trộm . Những kẻ phản bội tổ quốc rước giặc về giày xéo quê hương thì ông nguyền rủa, trong đó có cả Giáo hoàng Boniphace VIII. Tiếp đó Virgile dẫn Dante đi thăm Luyện Ngục gồm  7 bậc, nơi đây yên tĩnh giúp người ăn năn hối cải, tẩy rửa lỗi lầm. Họ là danh nhân văn nghệ sĩ triết gia anh hùng quá khứ là những người có công với tổ quốc, loài người. Họ sắp rời khỏi đây lên thiên đường cực lạc chan hòa ánh sáng .

 Nhưng khi qua khỏi Luyện Ngục, Virgile từ giã Dante vì ông là người dị giáo không lên được thiên đường. Nàng Beatrice lại xuất hiện trong ánh hào quang rực rỡ màu áo đỏ tươi  tấm khăn trắng trên đầu buông xuống cùng những cành nguyệt quế. nàng nhắc lại tình xưa nghĩa cũ , trách móc Virgile nặng nề nhưng thật đáng yêu:
“Một thời tôi đã lấy dung nhan nâng đỡ cho chàng
đôi mắt tơ xuân tôi để chàng ngắm
và tôi dắt chàng cùng tôi thẳng tiến
buồn thay vừa bước chân vào tuổi trưởng thành
tôi bỏ cuộc đời sang cõi trường sinh
chàng quên tôi, buông mình vào tay kẻ khác
Trả lời đi, nói đi cho mọi người biết
Chàng vô cùng đáng trách”
Dante cũng không nén nổi xúc động :
            “Tình yêu ơi , em cứ thì thầm trong trái tim ta”
Sau đó Beatrice đưa nhà thơ Dante lên cõi thiên đường, ông chiêm ngưỡng ngây ngất hình ảnh  Chúa Cứu Thế, lòng trào dâng niềm tin tưởng.

Đằng sau những quan niệm tôn giáo thần bí về ba thế giới (Địa ngục, Luyện ngục, Thiên đường) vốn là bút pháp tượng trưng, ẩn dụ quen thuộc thời trung cổ, chúng ta nhìn thấy hiện thực với nhiều ý nghĩa và quan niệm mới mẻ về tình yêu, báo hiệu mùa xuân thi ca mới. Đó là niềm tin vào  con người có trí thông minh và lòng dũng cảm. Dante say sưa ca ngợi anh hùng cổ đại Odyssee bôn ba đi tìm những bến bờ xa lạ. Ca ngợi những triết gi , nghệ sĩ Hi Lạp đem lại bao hiểu biết và xúc cảm cho loài người .

Hình tượng Virgile tượng trưng cho lí trí thì nàng Beatrice tượng trưng cho tình yêucái đẹp. Cuộc hành trình của nhà thơ Dante được dẫn dắt bởi hai nguồn tinh hoa ấy . Nhà thơ đi tới đâu ? Đến với hình ảnh Chúa Cứu Thế tượng trưng cho Chân -Thiện – Mỹ chứ chẳng phải đấng siêu hình nào.

Chẳng phải ngẫu nhiên nàng Beatrice có mặt từ đầu đến cuối cuộc đời nhà thơ. Ngay ở thiên đường nàng vẫn tiếc thương mối tình trần thế. Nàng là ân sủng tình yêu mãi mãi dành cho nhà thơ. Nhà triết học cổ điển Đức Hegel đã nhận xét thật đúng: “Dante nhờ tình yêu của Beatrice mà trở thành bất tử. Tình yêu được hoán cải biến thành tình yêu mới có tính tôn giáo không dục vọng” (Mĩ học – Hegel) .
Nhà thơ Dante đã đóng vai trò quan tòa khi ông đưa kẻ này xuống địa ngục, người khác lên thiên đàng theo chuẩn mực mới của chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng.

Nhà thơ Pétraque (1304-1374)

Tác phẩm tiêu biểu là Ca Khúc (Canzonie) . Tập thơ tình yêu nói về mối tình của ông với nàng Lora. Chịu ảnh hưởng của Dante, nhưng ông không ca ngợi một “nàng tiên” mà miêu tả ca ngợi một Lora bình thường sống giữa người trần, nàng hiện lên sinh động. Những mong đợi buồn tủi , khổ đau nhưng đó chính là tình yêu thực sự.
Ngoài thơ tình, Petraque còn làm thơ về triết học, chính tr , như bài “Nước Italia của tôi” , “Tâm hồn cao cả”. Thơ ông có tác động mạnh đến quần chúng nhân dân trong công cuộc đấu tranh thống nhất đất nước Italia .

Boccacio  và Truyện “Mười ngày”

(1313-1375)
Boccacio là nhà bác học nhân văn chủ nghĩa, ông say mê và am hiểu văn hoá cổ Hi Lạp La mã. Tác phẩm tự truyện “Phiammeta”. Truyện kể dựa trên mối tình của ông với công chúa Phiammeta .Nàng yêu ông bắt nguồn từ quí mến tài năng ông, nhưng gia đình ông là thương nhân địa vị xã hội thấp nên  cuộc tình duyên đã tan vỡ . Đau buồn, ông viết truyện để hả giận. Boccacio xây dựng nhân vật Pamphilo để cho nhân vật này bỏ rơi nàng Phiammeta.

Tác phẩm bất tử của Boccacio là Decameron (Mười ngày) .Truyên kể bảy cô gái ( trong đó có một cô tên Phiammeta ) và ba chàng trai (có nhân vật Pamphilo) đều là con nhà  quí tộc rủ nhau đến ở một lâu đài ở ngoại thành phố Florence để tránh bệnh dịch hạch. Họ chuyện trò, dạo chơi, để quên đi cái chết đang đe doạ thành phố. Mỗi ngày họ bầu một người làm vua  hoặc hoàng hậu để điều khiển cuộc vui chơi. Kể chuyện là trò thú vị nhất. Mỗi ngày họ lần lượt kể 10 câu chuyện. Sau mười ngày được 100 câu chuyện. Hết mười ngày thì nạn dịch hạch chấm dứt, họ lại quay về thành Florence.
Tác giả nói rằng ông viết truyện này để mua vui cho nữ giới vì họ là phái Đẹp và tình yêu của họ  là ý nghĩa của cuộc sống trần thế này.

Truyện Mười ngày cổ vũ tinh thần ham sống , yêu đời , chống lại quan điểm tôn giáo khổ hạnh cho rằng cuộc đời là tạm thời ,vật chất thể xác là đáng khinh bỉ. Truyện vang lên tiếng cười giòn giã chế giễu, đả kích đạo đức luân lí phong kiến và nhà thờ và học thuật của họ. Thầy tu, quí tộc và triết gia thần học kinh viện  đều bị đem ra làm trò cười, bị vạch chân tướng là những kẻ đạo đức giả, trác táng dâm ô bịp bợm. Tác giả đồng tình cổ vũ những mối tình tự do bất chấp khác nhau về đẳng cấp, địa vị, kể cả thú vui tình yêu thể xác tự nhiên. Nhà văn còn dành thiện cảm và khích lệ cho giới thị dân và thương nhân – những lớp người tiến bộ của thời đại.

Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, chủ đề phong phú đa dạng của Boccacio khiến Decameron   được coi là tác phẩm xuất sắc của Italia, mở đường cho truyện ngắn và tiểu thuyết châu Âu. Từ đây phương pháp hiện thực đã được chú ý và khẳng định. Mục tiêu chính là truyền bá tư tưởng nhân văn Phục Hưng nhưng ông còn chú ý miêu tả quang cảnh đất nước Italia từ thị thành đến làng quê đủ màu sắc.Hàng trăm kiểu nhân vật đa dạng từ mọi tầng lớp xã hội Italia hiện ra sinh động , tất thảy đều thể hiện tâm tư khát vọng sống cùng thời đại.

Giai đoạn kế tiếp, văn nghệ thiên về dịch thuật tác phẩm cổ Hi, bên cạnh thơ ca, nghệ thuật tạo hình nổi lên với những nghệ sĩ thiên tài như Leonardo da Vinci, Mikellange và Raphael . . .

Cuối phong trào, văn hoá Tây ban nha cùng với sự cai trị của đế quốc Tây Ban Nha vượt lên lấn át khiến cho văn hoá phục Hưng Italia tàn lụi dần. Giai đoạn này gọi là “hậu kì Phục Hưng”.

2 . VĂN HỌC PHÁP – MỘT MÙA HOA TRÁI TƯNG BỪNG

Văn nghệ Phục Hưng Pháp ra đời muộn hơn Ý. Mãi sau cuộc chiến tranh Anh – Pháp kéo dài 100 năm (1337 – 1453) chấm dứt, Pháp mới rảnh tay xây dựng lại đất nước và đi vào Phục Hưng.

Nửa đầu thế kỉ XV, các lãnh chúa củng cố vương quyền, xây dựng kinh tế. Cuối thế kỉ, nước Pháp trở thành quốc gia thống nhất về chính trị và kinh tế. Vua Louis XI được tư sản ủng hộ, khuyến khích thuơng mại, sửa sang đường giao thông thủy bộ, tổ chức bưu điện, chợ búa, hội chợ  đẩy mạnh ngoại thương với các nước ven bờ Địa Trung hải  và bắc Âu… Nửa đầu thế kỉ XVI, Pháp bắt đầu bành trướng thế lực. Dưới các triều vua Charles VII , Louis XII, Francoise I, Henri II, Pháp mở nhiều chiến dịch xâm lược Ý, giành giật với Anh và Tây Ban Nha. Chiến tranh khiến cho nước Pháp thiệt hại, kinh tế tài chính kiệt quệ, an ninh chính trị bất ổn, nội chiến tôn giáo bùng lên.

Điều đáng kể là do tiếp xúc với Ý, Pháp phát hiện ra nển văn hóa cổ đại Hi Lạp và La Mã với nguyên dạng của nó. Nhiều nhà bác học Hi Lạp được mời sang Pháp. Những người quí tộc Pháp thức thời đóng vai trò quyết định gây nên phong trào văn hóa Phục Hưng ở xứ sở này. Đó là tầng lớp quí tộc tiến bộ Pháp, trong đó có hai anh em nhà vua Francoise và em gái đã phất lên ngọn cờ nhân văn chủ nghĩa.

1 .Thành tựu của thể loại truyện
Truyện là thể loại có những thành công đáng kể. Nó phản ánh khá trung thành hiện thực nước Pháp thế kỉ XVI: mâu thuẫn xã hội gay gắt, giai cấp thống trị sa đọa (quí tộc hống hách, ăn chơi, tăng lữ hợm hĩnh, dốt nát), những lo toan khát vọng của dân chúng, niềm vui và nỗi đau khổ, tội ác và đạo đức đều được ghi lại. Ba cây bút xuất sắc là Margerite Danguleme, Bonaventue và Noel du Fale.

Marguerite D’Angouleme là em gái vua Francoise I . Sau khi góa chồng , bà tái giá với vua xứ Navare (thuộc Pháp). Là phụ nữ  thông thái nhất thời bấy giờ , bà thông thạo các thứ tiếng chủ yếu ở châu Âu (Hi Lạp, Latin, Ý, Anh, Do thái, Tây Ban Nha, Đức). Bà làm thơ và viết kịch; nổi tiếng là nhờ tập truyện “Truyện bảy ngày” bắt chước kết cấu “Truyện mười ngày” của Boccassio (Ý), nhưng phần sáng tạo nội dung rất độc đáo .Do xuất thân chốn cung đình, Margerite hiểu rõ đời sống quí tộc. Là một phụ nữ thông minh nhạy cảm bà tiếp nhận luồng gió mới nhân văn chủ nghĩa (thổi lên từ đất Ý) với niềm phấn khích, say sưa. Tác phẩm của bà toát lên khát khao hạnh phúc tình yêu. Bà tỏ ra hoài nghi nền đạo đức trung cổ dối trá, châm biếm lũ quí tộc tầm thường và thầy tu giả hiệu. Văn của bà đôi khi bộc lộ nỗi khát khao xác thịt. Bà nổi tiếng là cây bút nữ kể chuyện táo bạo, hấp dẫn hiếm có trên văn đàn.

2 . Thơ ca
Lúc đầu, nhà thơ Clement  Marot được coi là nổi tiếng nhất với tập thơ “Địa Ngục”. Tập thơ tố cáo thói cuồng tín, chủ nghĩa ngu dân của trường đại học Sorbone, lên án pháp luật đương thời, bọn quan tòa và những tệ nạn do luật pháp phong kiến gây ra.

Pierre de Ronsard là nhà thơ quí tộc, được nhà vua che chở, công danh rộng mở. Sau một trận ốm bị điếc, nhà thơ thất vọng quay ra làm thơ. Nổi tiếng là các tập thơ tình yêu , nhất là tập  Sonnet gửi Helene với cảm hứng say mê cổ đại và Phục Hưng Ý. Ronsard là nhà thơ của hạnh phúc và tình yêu trần gian, của thiên nhiên và lòng yêu nước. Ông cùng với Du Bellay lập ra trường phái thơ La Pleiat.

Joachim Du Bellay (1522-1560) là người viết bản tuyên ngôn của thi phái La Pleiat “bảo vệ và làm giàu cho tiếng Pháp”. Lúc đó, ở nước Pháp, tiếng Latin vẫn là ngôn ngữ chính thống, sự ra đời của bản tuyên ngôn đó là cái mốc quan trọng của nền văn hóa Pháp. Bản tuyên ngôn thể hiện ý chí thống nhất nước Pháp, là quyết tâm, hoài bão của trí thức văn nghệ sĩ muốn sáng tạo một nền văn hóa dân tộc có thể sánh ngang ngôn ngữ văn hóa Hi La cổ đại. Bảy nhà thơ tiêu biểu hợp thành thi phái, tập thơ “Luyến tiếc”(Regrets) của Du Bellay nổi tiếng hơn cả.

Còn hai dòng thơ khác chứa đựng nhiều hương vị. Dòng thơ Lyon của tầng lớp thị dân đông đảo khát khao cuộc sống thế tục và nền văn hóa mới. Dòng thơ nội chiến tôn giáo nổi lê hai giọng thơ bi tráng đau lòng vì cảnh huynh đệ tương tàn, đẫm máu đẩy nước Pháp trở lại cảnh chia sẻ lãnh thổ. Các bài thơ đều hàm ý chỉ trích đạo thiên chúa ỷ thế mạnh hơn tranh giành dịa vị để ” giằng lấy bầu sữa của đất mẹ mà uống một mình “.

3 . Nhà văn Rabelais (1494-1553) và bộ tiểu thuyết “Gargantua & Pantagruel”
Francoise Rabelaise là nhà tiểu thuyết và nhà bác học, sinh vật học, bác sĩ y khoa , luật gia nhà thiên văn học, thông thạo cả sáu ngoại ngữ quen thuộc ở Tây Âu. Học trường dòng, trở thành tu sĩ nhưng Rabelaise sớm chán ngán cuộc sống tu hành. Bị quở phạt , anh cởi bỏ áo tu sĩ đi đây đó lẩn tránh gia đình và bề trên. Anh say mê nghiên cứu cổ đại và ưa giao du với các nhà tri thức nhân văn chủ nghĩa. Trở lại học luật, xong đi Paris học y khoa. Đi làm thầy thuốc ở Lyon và viết tiểu thuyết. Xuất bản cuốn Gargantua. Cuốn này bị trung tâm thần học Sorbone lên án. Rabelais bèn xin đi theo Hồng y Giáo chủ Jean Due Bele sang La mã cầu cứu. Năm sau cuốn Pantagruen tiếp nối cuốn  kia ra đời (tập 2), lại bị đại học Sorbone lên án, tác giả phải chạy sang  La mã, được giáo hoàng  công bố miễn tội.

Năm 1545 được phép vua, ông xuất bản “Cuốn thứ ba” kí tên thật, lại bị lên án. Năm 1552 xuất bản “Cuốn thứ tư” vẫn bị đại học Sorbone phản kích gay gắt.”Cuốn thứ năm” được xuất bản sau khi tác giả qua đời năm 1554.

Ngoài bộ tiểu thuyết năm cuốn, Rabelais còn viết sách y học và khảo cổ học. Rabelais là một trong những “người khổng lồ” của văn học Phục Hưng Tây Âu.

Tóm lược nội dung 5 tác phẩm :
GARGANTUA – CUỐN 1
             Gargantua là cậu bé con của một lãnh chúa vùn .  Cậu bé khổng lồ vừa lọt lòng mẹ đã cất tiếng đòi ăn uống. Phải vắt sữa 176913 con bò mới đủ cho nó thỏa cơn khát đầu tiên. Lớn lên, theo học thầy tu Tuba . Cậu bé trở nên ngớ ngẩn bởi ông thầy nhồi nhét hàng lô kiến thức “chết”( kinh viện, thần học). Cha cậu gởi con đi học ở Paris . Trên đường đi , đuôi ngựa cậu quật nát cả một khu rừng .

Vừa đến Paris ,Gargantua lấy ngay chuông nhà thờ Đức Bà treo lên cổ ngựa đi chơi .Đại học Sorbone cử một ông thầy ra điều đình với cậu, ông nói một tràng tiếng Latinh, mọi người cười lăn vì chẳng ai hiểu gì cả .

Giáo sư của cậu bé là thầy Ponocrates, thầy áp dụng thí điểm một chương trình và phương pháp dạy học mới nhằm phát triển con người toàn diện: trí đức thể mĩ, lại có lao động chân ta , học ngh , đi tham quan sản xuất, công trường, đi dã ngoại cỏ cây . . . Phương pháp mới là hướng dẫn học trò quan sát tự rút ra kết luận , gợi hứng thú cho học trò nghiên cứu .

Gargantua đang say mê học tập thì có thư cha gọi về chống giặc xâm lược. Thời chiến tranh , các tu sĩ chỉ biết đóng cửa lo cầu nguyện . Riêng có một thầy tu dũng cảm ra trận diệt được nhiều giặ . Hoàng tử Gargantua thưởng công cho thầy : xây một tu viện mới  tên là Theleme giao cho thầy phụ trách . Tu viện có qui chế mới lạ: con trai từ 12 đến 18 tuổi, con gái từ 10 – 18 đều được tự do vào học . Một khẩu hiệu lớn treo trước cổng: ” Muốn làm gì thì làm “… Trai gái  tự do sống theo theo sở thích, vui chơi thả cửa tự do yêu đương, chừng nào chán tu viện thì bỏ đi .

PATAGRUEN – CUỐN 2
Gargantua cưới vợ, sinh con trai . Đứa bé tên Pantagruen, mẹ nó chết sau khi sinh đẻ . Trước nôi con và xác vợ, Gargantua suy nghĩ hồi lâu không biết nên khóc hay nên cười . Anh quyết định ở nhà ẵm con để mọi người đi chôn cất vợ mình .

Giống như cha, Pantagruen cũng là một đứa bé có tầm vóc khổng lồ. Lớn lên nó cũng được gởi đi học ở những trường đại học nổi tiếng như Pati , Bordo, Touluse , Avignon , Orlean  .
Gar gantua thường viết thư động viên con chăm chỉ học tập nắm lấy kiến thức khoa học tiến bộ của thời đại. Pantagruen kết bạn với Panucger một anh chàng thông minh và láu cá .
                                                            CUỐN THỨ 3
QUÂN ĐỘI Dipsos xâm lăng bờ cõi . Pantagruen ra trận , dẹp tan giặc . Panucner được giao cai quản một thành trì. Gã này tiêu xài hoang phí , chỉ 14 ngày tiêu xài hết sạch của cải. Gã băn khoăn hỏi Pantagruen có nên lấy vợ hay không . Anh chẳng biết đáp thế nào nên rủ bạn đi tìm người giải đá . Hỏi nhiều hạng người nhưng chẳng ai trả lời thỏa đáng . Họ tiếp tục đi ra nước ngoài .
                                                            CUỐN THỨ 4
Đôi bạn lên tàu vượt biể . trên tàu, Panucner cãi lộn với một lái buôn cừu. Panucner trả thù bằng cách mua con cừ đầu đàn của đối phương rồi ném xuống biển, cả đàn cừu lần lượt nhảy theo xuống biển, gã lái buôn tiếc của cũng nhảy theo . Tàu gặp bão , Panucner sợ chết rên rỉ khóc than tìm chổ nấp.Thầy tu Jean và các thủy thủ cố sức chèo chống . Sóng yên bể lặng, panucner nhảy ra khoe khoang công trạng giúp tàu. Thuyền ghé vào hai hòn đảo. Dân chúng hao đảo này thù ghét nhau chém giết nhau liên miên ( ám chỉ cuộc nội chiến tôn giao ở Pháp) . Thuyền ghé thăm đảo Metce (nghĩa là ông dạ dày), nơi đây diễn ra những hoạt động khoa học và nghệ thuật .

CUỐN THỨ 5
Thuyền đến đảo Sonant . Nơi đây có những loài chim lạ thoạt trông có dáng hình người: chim lông trắng , chim đen tuyền, chim xám xịt, khoang đen, khoang trắng , hoặc đỏ chót . Lũ chim chỉ việc ăn no và hót kêu. Có một con chim đầu đàn . (ám chỉ  các loại thầy tu).

Thuyền lại ghé đảo có giống mèo lông xù chuyên sống bằng của đút lót. Tiếp đến đảoAnpedepe (ám chỉ thuế khóa), rồi ghé đảo Quintesant (ám chỉ đại học Sorbon). Hành trình tiếp tục và kết thúc khi thuyền đến xứ Langtenoi , họ được nữ chúa dẫn vào ngôi đền thờ “Lọ nước thần”. Khi Pantagruel đưa ra câu hỏi có nên lấy vợ không, nữ chúa chỉ trả lời «  uống đi! » ( trinhch ! )


Michel de Montaigne – nhà văn lớn cuốI cùng của thế kỉ 16 Pháp .

1. Cuộc đời và sự nghiệp:
Tên thật là Michel Eyquen
Xuất thân gia đình thưong nhân tư sản, cụ cố từng là lái buôn cá, sau mua đựoc trang trạI lâu đài của dòng họ quí tộc Montaigne, trở nên giàu có và gia nhập  hàng ngũ quí tộc. Cha của nhà văn lập công trong chiến dịch đánh Italia và đựoc bổ nhiệm chức vụ thị trưởng Bordeau.
Tốt nghiệp khoa luật ở đạI học Tulouse, Montaigne làm cố vấn ở toà án Perigor… nhưng không yêu nghề. Sau khi cha chết, ông bán lạị chức vụ, rút về ở trang trạI, miệt mài đọc sách. Ông còn giao du vớI bạn bè, đi đây đó. Năm 1580 viết xong hai tập tiểu luận “Essais”, ghi lại những ý kiến ,nhận xét về những sách đã đọc, về cuộc đờI và những nơi đã đi qu . Theo ông “essais” nghĩa là thể nghiệm, thể nghiệm cái năng khiếu tự nhiên của mình. Hoặc “đây chỉ là cuốn sổ ghi lạI những điều thể nghiệm đựơc trong đờI tôi“… Bị bệnh ông tìm đến nơi có suốI khoáng để an dưỡng. Ông sang Thuỵ sĩ , Italia, thăm La Mã đựơc tặng danh hiệu công dân thành La Mã. Vua Pháp gửI thư mờI ông về làm thị trưỏng Bordeau vì ông đựơc bầu vắng mặt. Ông trở về nứơc nhưng không thích nhiệm vụ này . Nạn dịch chết nhiều người ở lãnh địa Bordeau khiến ông bỏ về trang trại chạy dịch. Từ đó ông ít đi khỏi nhà, ngẫm nghĩ và viết.

Suốt thời kì chiến tranh tôn giáo (1560-1594), thái độ trung lập của ông khiến cả hai phe ngờ vực. Mặc họ, ông vẫn đọc sách, ghi chép và viết Tiểu luận tập 3 và cho tái bản hai tập đầu sau khi chỉnh lí sửa chữa.

Ông mất năm 1592 tại lâu đài. Năm 1595 bộ Tiểu luận  toàn tập đựơc bà De Gurnay con nuôi của ông xuất bản .

2. Tiểu luận và giá trị văn học
Tác phẩm nói lên con người tác giả vớI những mâu thuẫn hạn chế nhưng tràn đầy suy nghĩ và tìm tòi sáng tạo của một nhà tư tưỏng, nhà văn nghệ sĩ. Đó là cây bút trung thực dám bộc lộ quan điểm và cả thói xấu của mình, như ông viết  chỉ nói về tôi” .

Ông nói thẳng rằng ông không thích chính trị. Ông cho rằng “chính trị là công việc của những người biết phục tùng hơn và mềm dẻo hơn“ . Rằng “lợi ích công cộng đòi hỏI ngưòi ta phản trăc, dối trá, chém giết “ (Chưong I : Về cái lợI ích và cái lương thiện). Chính do quan niệm ấy, ông chán ngán, từ bỏ chính trưòng, về nhà đóng cửa đọc sách .

Chính trị thờI đó là chính trị của giai cấp phong kiến quí tộc và giai cấp tư sản đang ngoi lên. Nhà văn không thể nào chịu đựng đựoc thứ chính trị “phản trắc, dốI trá, giết ngưòi” của họ.

Nhà văn khẳng định phảI tuân theo những luật lệ của môi trường trong đó ngưòi ta sống “đừng nên thay đổi dễ dàng một luật lệ sẵn có“. Ông nghi ngờ cả hai phái cảI cách tôn giáo, không nhập cuộc. Quan điểm của ông có ý nghĩa tích cực vào giai đoạn đó .

Ông nêu lên một kiểu chủ nghĩa hoài nghi Montaigne qua câu hỏI nổI tiếng của ông:”Tôi biết gì ? “ (Que sais je ?) . Câu hỏI vang lên như một lờI phủ định toàn bộ những chân lí cũ, tín điều cũ. Ông phê phán triết học kinh viện, rằng nó chẳng phảI là khoa học, không giúp ích gì cho sự hiểu biết của con ngưòi. Ông hoài nghi cả cảm giác và lí trí. Nhưng không phải ông chỉ biết hoài nghi , “tôi yêu cuộc sống và tôi chăm bón cho nó“ . Ông bàn về cái chết, tâm lí sợ chết của ngưòi đờI và cố gắng đánh tan tâm lí đó. Theo ông , ngưòi ta sợ chết vì đã hình dung ra nó một cách sai lầm. Nếu biết gạt bỏ quan niệm sai thì ngưòi ta sẽ coi cái chết như hiện tưọng tự nhiên bình thưòng ,“mỗI ngày sống là tiến dần cái chết, ngày cuốI cùng là ngày đi tới nơi“.Ông hạ bút kết luận:”Triết học là học cách chết“. Khi đã không sợ cái chết nữa thì sẽ yêu cuộc sống hơn, học cách chết chính là học cách sống . Ông khẳng định rằng hạnh phúc niềm vui là niềm khao khát của mọi loài vật chỉ có đựơc ở ngay trần gian này. Muốn sống hạnh phúc thì phảI sống theo tự nhiên, thích ứng vớI tự nhiên. Tự nhiên có qui luật của nó, trật tự vững vàng và không phụ thuộc vào sự biến đổI của con ngưòi. Nhìn chung tư tưỏng của ông bắt gặp tư tưỏng nhân văn chủ nghĩa của thời đại Phục Hưng .

Đặc biệt, quan điểm giáo dục của Montaigne đáng đựơc chú ý. Trong chương “Bàn về trưòng lớp học cho trẻ em” ông đề xuất nhiều quan điểm tiến bộ. Ông lên án nhà trưòng Trung cổ “đích thị là một nhà tù giam cầm tuổI trẻ“ , ở đó chỉ “nghe tiếng trẻ con bị nhục hình đang gào khóc và tiếng cáu gắt của thầy giáo đang giận dữ“ . Ông mong muốn nhà trường phải là nơi đầy hoa lá chứ không cần đòn roi đẫm máu . Ông phản đốI lốI học nhồI nhét kinh viện, dạy học trò những điều vô bổ và phi lí. Giáo dục là xây dựng một con ngưòi chứ không phải chỉ bồi dưỡng tâm hồn và trí tuệ. Con ngưòi học trò phảI biết sáng tạo, biết suy nghĩ chứ không phảI đầy ắp kiến thức. Ông còn chủ trương đi du lịch tham quan, tiếp xúc nhiều với mọi ngờơi để tránh “tầm nhìn thu ngắn lạI bằng chiều dài sống mũi“.Đề án giáo dục của Montaigne căn bản đáp ứng nhu cầu của con em giai cấp quí tộc, giống nhưng không có vẻ “khổng lồ “ nhu Rabelais  .

Nghệ thuật luận văn của Montaigne rất hấp dẫn, trứơc hết nhờ những ý kiến mớI mẻ, cách dẫn dắt khéo léo khôn ngoan. Ở đó, nhà tư tưởng và nhà văn hoà hợp làm một cây bút.

Tránh sự khô khan của nhà triết học, văn ông trình bày đựơc những niềm vui bất ngờ lí thú .Tư tưởng nằm trong những hình ảnh cụ thể, thông qua cảm giác, mẩu chuyện, giai thoại vớI những ngôn ngữ giản dị ngây thơ. Ông tự nhận xét “đó là phong cách hài hước và riêng biệt”. Ông là nhà văn phóng túng, ngòi bút đang buông thả theo dòng bỗng nhiên sực tỉnh quay lại hoặc đột ngột chấm dứt. Bố cục các chương mục khó mà cân đối, chương ngắn xen kẽ chương dài. Một số nhà văn không thích và phê bình chỉ trích phong cách của ông, nhiều nhà triết học thế kỉ 18 Pháp lại ca ngợI ông và văn chương của ông.


3 – TÂY BAN NHA MỘT MÙA GẶT HÁI BỘI THU

Tây ban nha thế kỉ 15 thường xuyên xảy ra những cuộc tranh đoạt ngai vàng . Lãnh thổ chưa được thống nhất. Sang thế kỉ 16 , sau khi đuổi sạch quan xâm lược  đất nước TBN thống nhất  và phát triển mạnh mẽ . Nhờ vơ vét nhiều vàng bạc châu báu ở châu Mĩ và bóc lột các thuộc địa ở châu Âu, đất nước này giàu lên mau chóng . Dân chúng và quí tộc đổ xô sang châu Mĩ sinh cơ lập nghiệp và truyền bá tôn giáo cùng nền quân chủ.

Nền quân chủ TBN gắn bó chặt chẽ với lí tưởng thiên chúa giáo, chỉ phục vụ lợi ích quí tộc phong kiến và đẳng cấp tăng lữ. Thị dân và nông dân không ủng hộ nhà nước. Tôn giáo lộng hành, những kẻ cuồng tín, mê nuội và những nhà thờ tu viện dày đặc khắp đất nước.

Đến giữa thế kỉ 16, nền kinh tế khủng hoảng suy thoái  nông dân phá sản lây lan sang giới tiểu chủ, quí tộc cấp thấp. Công thương nghiệp cũng đình đốn.Tham nhũng, trộm cướp, tệ nạn xã hội cờ bạc đĩ điếm  Một  tâm trạng chung là hoài nghi bi quan  lan tỏa.

Những tình hình trên đã được phản ánh vào tác phẩm văn học. Đây là thời kì hoàng kim của văn học TBN, đạt tới đỉnh cao ở nửa sau thế kỉ 16 vươn dài tới giữa thế kỉ sau, trong khi kinh tế xã hội nước này vẫn suy thoái. Văn học Phục Hưng TBN có thể chia hai giai đoạn :

3.1 – Giai đoạn sơ kì Phục Hưng
Sau khi chiếm được vùng Napoli của Ý, vua TBN là Anphongse V quyết tâm biến thành phố này thành vùng văn hóa TBN. Nhưng chính nền văn hóa Phục Hưng Ý lại chinh phục được những kẻ đi chinh phục. Những tác phẩm Ý đã hấp dẫn cuốn hút các nghệ sĩ TBN gây nên phong trào  học tập và bắt chước  mẫu mực Ý. Các vua TBN cũng bắt chước các vua Ý đứng ra đỡ đầu cho các nhà bác học và văn nghệ sĩ giúp họ sáng tạo. Thơ ca TBN lúc đầu chịu ảnh hưởng thơ Ý, thành tựu đáng kể là “Romencero” được Victor Hugo gọi là “bản  anh hùng ca Illiade của dân tộc Tây ban nha”.
Tiểu thuyết hiệp sĩ cũng phát triển mạnh  trong giai đoạn đầu .

3.2 . Giai đoạn Phục Hưng nở rộ
Văn học phát triển toàn diện nhưng nổi bật là thơ ca, tiểu thuyết và kịch .

Thơ ca nhiều dòng: dòng thơ Ý, thơ truyền thống, thơ Salamant và dòng thơ thành Seville. Thơ phản ánh toàn diện tâm tư tình cảm đa dạng của giới trí thức Tây Ban Nha về đất nước lịch sử, dân tộc, về thời đại mới đang đến, về tình yêu. . . Các nhà thơ tiêu biều là: Juan Bocan, Cristobal, Louise Lenon, Fernando và De Vega.

Tiểu thuyết:
Hơn bất cứ nước nào ở Tây Âu, tiểu thuyết TBN phát triển rất mạnh, đạt tới đỉnh cao hiếm có như Don Quijote của Cervantes. Trước tiểu thuyết độc đáo này có ba dòng tiểu thuyết : tiểu thuyết hiệp sĩ, tiểu thuyết mục ca và tiểu thuyết Pycarete.

Tiểu thuyết mục ca: dòng tiểu thuyết quí tộc, nhân vật quí tộc bất mãn với xã hội tư sản nên tìm cách thoát ly, rời bỏ cuộc sống đô thị chật hẹp , khoác lên mình bộ áo người chăn cừu. Họ là những nam nữ du mục sống nơi hoang dã ,núi non. Tiểu thuyết ca ngợi lối sống du mục tự do, trong sạch phóng khoáng khác xa cuộc sống cạnh tranh vật chất và tù túng chốn cung đình và thành thị .Các mục đồng say sưa với tình yêu ngoài bãi cỏ, sườn non bờ suối coi tình yêu là niềm vui lẽ sống duy nhất . Nổi tiếng là tiểu thuyết  “Nàng Diana” của Montemayor gồm 7 cuốn. Chuyện kể một mối tình đau khổ của hai chàng chăn cừu Cireno và Sinvano, cả hai cùng yêu nàng Diana một cô gái chăn cừu xinh đẹp. Nàng yêu Cireno và lạnh nhạt với Sinvano. Rồi nàng lại từ bỏ tất cả để đi cưới tên nhà giàu Dellio. Một cô gái khác tên Senvakia làm quen và an ủi hai kẻ thất tình. Một anh khỏi bệnh và một chàng được yêu. Cuốn tiểu thuyết này có tiếng vang ở châu Âu, Cervantes và Sakespeare đều chịu ảnh hưởng  của nó.

Tiểu thuyết Pycarete: Miêu tả cuộc sống của lớp người vô sản hóa và lưu manh gọi là tầng lớp Picaro. Họ không có nghề nghiệp, đi lang thang, làm bất cứ việc gì để sông bất kể tốt xấu, vào tù ra khám là thường. Họ lưu lạc giang hồ lên voi xuống chó. Tiểu thuyết viết dưới dạng hồi kí thường do một picaro kể lại đời mình. Những pha gay cấn éo le được miêu tả sinh động hấp dẫn. Tiểu thuyết Pycarete có ý nghĩa tố cáo thực trạng ở một số nước Tây Âu đương thời, gây ảnh hưởng mạnh đến loại tiểu thuyết giang hồ ở Anh, Phá , Đức, rõ nhất là cuốn “Robinson Crusoe” của Daniel Defoe nhà văn Ánh sáng  Anh .

Tiểu thuyết hiệp sĩ :Tác phẩm ca tụng nhân vật hiệp sĩ lí tưởng của chế độ phong kiến trung cổ. Đến cuối thế kỉ 16, loại tiểu thuyết này suy tàn vì chẳng còn người đọc.

Tiểu thuyết hiện thực Phục Hưng đánh dấu bằng kiệt tác Don Quijote của Miguel De Cervantes. Don Quijote đã  chế giễu tiểu thuyết trung cổ lỗi thời cùng với lí tưởng hiệp sĩ TBN, đóng vai trò kết thúc dứt điểm thể loại này.


3.3. CERVANTES VÀ TIỂU THUYẾT DON QUIJOTE

Nhà văn Miguel de Cervantes sinh năm 1547 tại một thị trấn gần thủ đô Madrid. Trường đại học Madrid là một trung tâm nhân văn chủ nghĩa nổi tiếng thời bấy giờ. Ông cụ thân sinh nhà văn làm nghề thây thuốc, thuộc dòng dõi tiểu quí tộc. Cervantes có 7 anh chị em, theo cha chuyển cư nhiều nơi mãi sau mới định cư ở Madrid, cha vẫn làm thầy lang nghèo . Cervantes may mắn được học hết bậc đại học. Hai mươi tuổi anh được đi phục vụ giáo chủ Aquaviva là đặc sứ của Giáo hoàng tại Tây ban nha. Anh theo giáo chủ sang Italia – nơi mơ ước của thanh niên trí thức châu Âu – cái nôi của phong trào văn hóa Phục Hưng , vùng đất giàu đẹp hiếm có.Giáo chủ Aquaviva qua đời, anh ở lại gia nhập quân đội Tây Ban nha đang đồn trú ở Italia . Năm 1571, trong một trận thủy chiến, Cervantes chiến đấu dũng cảm bị thương nặng mất một cánh tay. Năm 1575 ông được phép về thăm tổ quốc và gia đình , mang theo 2 lá thư tiến cử mình với triều đình hoàng đế Philip II. Lá thư thứ nhất của Don Juan tư lệnh quân đội TBN. Lá thư thứ hai của Don Carlos phó vương đảo Cicille. Hai lá thư giới thiệu ông là chiến binh dũng cảm, đề nghị triều đình khen thưởng và trọng dụng

Trên đường về nước cùng đi có cả anh ruột và  nhiều chiến sĩ có công trạng. Không may giữa đường thuyền của ông bị bọn cướp biển Bắc Phi chặn đánh. Ông và đồng đội chống trả đến cùng nhưng thatt bại. Ông và những người sống sót bị đưa sang Angeri  bị giam giữ suốt 5 năm , nhiều lần vượt ngục không thành. Ông được coi là người lãnh đạo tù nhân đấu tranh. Mỗi khi vượt ngục thất bại ông đều đứng ra nhẫn trách nhiệm khiến kẻ thù cũng phải vị nể. Có lần ông đã vạch kế hoạch cướp chính quyền ở Angeri. Năm 1580 ông được chuộc ra do gia đình và bạn bè cùng nhà dòng góp tiền . Triều đình TBN dửng dưng không hề can thiệp vào việc giải phóng những người chiến sĩ trung thành của đất nước .

Về đến quê nhà, cha vừa mất gia đình đã khánh kiệt nghèo túng hơn xưa. Cervantes lại thêm đau lòng vì cảnh quê hương đất nước tiêu điều, cung đình thì ăn chơi xa hoa lộng lẫy .ông tìm vào kinh đô với hi vọng công lao của mình được khen thửng. Nào ngờ vua Philip II chỉ ban cho ông 50 đồng tiền vàng và ra sắc lệnh điều ông đi công việc ở Bắc Phi . Sau chuyến đi tiền xài hết. Ông xin một chức vụ nhỏ nhưng triều đình làm ngơ vì họ cho rằng đã bù đắp đủ cho  5 năm chiến đấu Bắc Phi và cánh tay cụt của ông.

Cervantes trở lại cuộc đời người lính, sang đóng quân ở Bồ Đào Nha. Chán nản, ông xin giải ngũ về nhà, lấy vợ. Để kiếm sống, ông làm thơ viết kịch, vẫn không đủ sống , lại đi xin việc, quân đội cho ông công việc đi thu gom lương thực. Mười năm làm nghề này va chạm nhiều với giới quí tộc và tăng lữ – những kẻ ngoan cố gian lận nhất trong việc đóng thuế lương thực và bán lúa thừa. Trong khoảng đó ông viết vài truyện ngắn, rồi mấy lần vào ra tù vì bị vu oan lạm tiền công quĩ và lương thực. Lại có lần ông bị nhà thờ trù dập rút phép thông công.

Mười mấy năm cuối đời, ông sống nghèo túng nhưng lại là lúc tài năng sáng tạo văn học phát triển. Năm 1605, Cervantes 58 tuổi, cho xuất bản tập 1 của tiểu thuyết tiếng Tây ban nha là El Ingenioso Hidango Don Quijote de La Mancha, nghĩa là Truyện nhà hiệp sĩ trứ danh DonQuijote dòng dõi Hidango ở xứ Mancha (Trước đây dịch qua bản tiếng Pháp là Đông Ki Sốt, nay nên đọc  theo đúng ngữ âm Tây ban nha là Đông- Ki hô tê).  Cuốn sách lập tức được dịch sang tiếng Pháp, Ý, Bồ đào nha và tái bản 4 lần ở Tây ban nha trong năm đó. Trong 6 năm kế tiếp ông đang viết tiếp tập 2  thì có tên lừa đảo tung ra cuốn “Don Quijote phần 2″ khiến ông phải mau chóng hoàn thành phần 2 thực sự của mình để xuất bản (năm 1614). Ông còn viết một tập kịch nữa, sách in nhiều, bán chạy nhưng bọn chủ nhà in thì phất lên giàu có còn ông vẫn nghèo vì tiền nhuận bút ít ỏi. Nhà văn Cervantes  về già  vẫn nghèo túng, bệnh tật liên miên. Ông còn viết một cuốn tiểu thuyết cuối cùng và hoàn thành trước khi mất một tuần – ông qua đời ngày 23 tháng tư / 1616.
Ngày nay, cuốn Don Quijote được coi là tác phẩm lớn lao nhất, đỉnh cao chói lọi của Cervantes. Trong lời Tựa, nhà văn nói rằng ông muốn nhái lại tiểu thuyết hiệp sĩ”, tác phẩm của ông “từ đầu đến cuối là một lời thóa mạ dài” đối với loại tiểu thuyết đó. Sau đây giới thiệu tóm tắt cốt truyện :

Xứ Mancha, Tây ban nha có một nhà quí tộc sa sút tên là Kijana  khoảng  năm chục tuổi , cao lênh khênh , gày gò nhưng tráng kiện . Quanh năm nhàn rỗi, không làm việc gì ngoài vùi đầu đọc sách hiệp sĩ . Y đọc mải miết, chẳng ngó ngàng tới sự đời , nhà cửa ruộng đất và quên hết những thú vui thông thường. Y bán dần ruộng đất để mua sách hiệp sĩ chất đầy nhà. Đọc nhiều ngủ ít, trí óc y lú lẫn , y coi những chuyện trong sách là chuyện thực ngoài đời , hơn cả sự thực. Một ngày kia y nảy ý định lên đường làm hiệp sĩ giang hồ để cứu khổ phò nguy thiên hạ và làm rạng rỡ  tên tuổi mình .
Y moi ra những áo giáp, khiên mũ và thanh kiếm cũ của ông tổ bốn đời rồi lau chùi hoen rỉ , sửa sang trang bị cho mình. Con ngựa gầy còm trong chuồng y lôi ra làm con chiến mã và đặt cho nó cái tên mĩ miều -Rossinant . Y cũng đổi luôn tên mình thành “Don Quijote xứ Mancha” cho đúng kiểu cách một trang hiệp sĩ . Lại phải tìm ra một người phụ nữ đẹp để tôn thờ làm “bà chúa của trái tim hiệp sĩ ” , y nghĩ tới một cô gái nông dân ở làng Tobozo mà đã có lần y cảm động xao xuyến khi nhìn thấy . Chẳng biết tên cô , y đặt cho cô cái tên quí phái – Duncine công nương xứ Tobozo . Y đắc ý vì đã chuẩn bị đầy đủ mọi thứ để làm một hiệp sĩ mẫu mực .

Một buổi sớm rạng đông , y mặc trang phục hiệp sĩ cưỡi ngựa lẻn ra đi không để cô cháu gái già và mụ quản gia biết .Lang thang suốt ngày đầu tiên , chiều y tới một quán trọ bên đường có nhiều người ngựa ra vào , y tưởng đó là một lâu đài của một quí tộc lãnh chúa – người có thể giúp tấn phong danh hiệụ hiệp sĩ . Y dắt ngựa vào , trịnh trọng tự giới thiệu với chủ quán và bày tỏ nguyện vọng . Lão chủ quán tin rằng y là một kẻ tâm thần rồ dại nhưng nghĩ nhân cơ hội bày trò vui cho khách trọ nên nhận lời làm lễ tấn phong  hiệp sĩ cho y . Tối hôm ấy , theo như phong tục hiệp sĩ trong sách , y thức trắng đêm để tâm niệm , suy ngẫm . Một gã lái buôn cũng là khách trọ dắt ngựa đi uống nước lỡ đụng chạm đến đống võ khí trang bị cụa y để bên thành giếng nước . Nghĩ rằng mình đã bị xúc phạm , y cầm cây giáo đập vào đầu gã khách thương khiến y ngã lăn bất tỉnh . Chủ quán vội vã bày lễ tấn phong để mau chóng tống khứ ông khách kì dị này đi . Tin tương rằng đã là hiệp sĩ , y tiếp tục lên đường tìm cơ hội ra tay nghĩa hiệp lập chiến công .

Thấy cảnh một em bé mục đồng bị ông chủ trói đánh đập tàn nhẫn , y thúc ngựa xông vào can thiệp . Hỏi ra mới biết em bé để lạc mất một con cừu nên bị chủ phạt , y giận lắm . Quắc mắt lên y ra lệnh cho tên chủ cởi trói cho em bé , trả tiền công đầy đủ , lại bắt hắn phải thề từ nay không hành hạ em bé làm thuê nữa . Hoảng sợ , tên chủ vội hứa hẹn . Nhưng khi hiệp sĩ vừa đi khuất,  gã chủ lại trói và đánh em bé tàn nhẫn hơn trước .

Tiếp tục cuộc hành trình vô định , Don Quijote gặp một đoàn lái buôn . Y chặn họ lại , yêu cầu họ phải lên tiếng thừa nhận nàng Duncine xứ Tobozo là người phụ nữ đẹp nhất thiên hạ . Bọn lái buôn nổi giận xúm lại đánh y một trận tơi bời à Một bác thợ cày cùng làng đi ngang qua thấy y ngã ngựa bèn vực y dậy , dìu về quê . Ở nhà , cô cháu gái và mụ quản gia cùng mấy người bạn của y đang đốt  bỏ đống sách hiệp sĩ của y . Họ chắc rằng sau chuyến thất bại xương máu vừa rồi y sẽ bỏ giấc mộng hiệp sĩ .

Nhưng sức khỏe vừa hồi phục , y lại âm thầm chuẩn bị tái xuất giang hồ . Y rủ rê bác nông dân hàng xóm tên là Sancho Pancha đi theo mình làm cân vệ dắt ngựa . Bị cám dỗ bởi những lời hứa hẹn của y , bác nhận lời . Thế là một sớm tinh mơ , hai thầy trò lẳng lặng lên đường . Đi sau con ngựa gày gò chở ông chủ cao gày là con lừa thấp bé chở bác thợ cày lùn mập ù vai đeo chiếc bị đựng đồ ăn và một bầu rượu lớn . Khi nhìn thấy những chiếc cối xay gió khổng lồ , hiệp sị tưởng đó là bọn quỉ khổng lồ hung ác . Bất chấp bác Sancho can ngăn giải thích , y thúc ngựa vung giáo xông vào đâm . Gặp cơn gió mạnh , cối quay mạnh ,  bẻ gãy cây giáo và quật y ngã lăn bầm dập

Lại gặp một đoàn tù khổ sai đang bị lính dẫn đi , y động lòng , phẫn nộ thấy cảnh con người bị tước đoạt tự do . Y xông vào tấn công tên lính , đám tù nhân chớp cơ hội bỏ chạy thoát thân . Còn y bị tên lính đánh nhừ tử Lát sau những tù nhân  quay lại tìm y săn sóc và cảm tạ ân nhân . Nhà hiệp sĩ yêu cầu họ hứa tìm đến làng Tobozo gặp công nương Duncine để cảm tạ và báo công trạng cho y . Bọn họ từ chối , y nổi giận xỉ mắng họ . Tù nhân phần lớn là dân lưu manh côn đồ tướng cướp nổi giận đánh y một trận nữa rồi bỏ đi . ( Ngoài ra y còn gây nhiều cuộc ẩu đả khác và phần lớn đều thua cuộc ) . Cô cháu gái đã nhờ người dùng sức mạnh và mưu kế bắt y vào cũi , chở về nhà .

 Nghỉ ở nhà ít lâu , hai thầy trò lại lên đường lần thứ ba . Nhiều trò điên rồ kì quặc lại xảy ra Lần này bác thợ cày được cử làm tổng trấn một hòn đảo , đúng như lời hứa ban đầu của hiệp sĩ Quijote . Đó chỉ là cuộc bày trò  vui của hai vợ chồng t quận công nọ trong thời gian hai thầy trò đến lãnh địa của họ .

Một lần nữa, gia đình và bè bạn lại dùng mưu kế buộc nhà quí tộc già Kijana phải từ bỏ con đường hiệp sĩ giang hồ . Một anh cháu họ đóng giả hiệp sĩ với biệt danh ” Vừng trăng bạc ” , đón gặp nhà hiệp sĩ lừng danh ” Mặt buồn ” ( tức Don Quijote ) . Anh thách đấu với điều kiện : nếu thua trận anh sẽ tự nguyện làm hầu cận dắt ngựa cho hiệp sĩ ( thay bác Pancha đã bỏ chức tổng trấn về quê sau khi không thể làm được chức vụ ấy vì dốt nát – nhưng bác cũng vớ được một ít của cải nhỏ mang về cho vợ ). Còn nếu hiệp sĩ thua trận sẽ phải thề từ bỏ giang hồ trở về nhà . Cuộc đấu diễn ra , hiệp sĩ Mặt Buồn già yếu thua trận , y đành phải giữ lời hứa danh dự của hiệp sĩ quay về nhà . Buồn bã khọn nguôi vì lí tưởng hiệp sĩ bỏ dở , y lăn ra bệnh trong nỗi buồn rầu khôn nguôi . Nằm trên giường bệnh y nghĩ lại ba lần giang hồ và nhận ra tác hại của tiểu thuyết hiệp sĩ . Biết mình sức đã tàn, y  viết chúc thư phân phối tài sản cho cô cháu gái và bác nông dân Pancha. Vài ngày sau Don Quijote từ giã cuộc đời .

 sưu tầm

( có vẻ như phần này chú trọng Mười ngày và Donkihote nhất nên mình chỉ post mục này thôi )

CHƯƠNG VII -  VĂN HỌC PHỤC HƯNG ANH

NƯỚC ANH BƯỚC VÀO THỜI ĐẠI PHỤC HƯNG muộn hơn so với Ý, Pháp,Tây ban nha và các nước Tây Âu khác. Bởi trong hai thế kỉ 14 và 15 nước Anh mắc vào hai cuộc chiến tranh: chiến tranh 100 năm với Pháp tuy không diễn ra trên đất Anh nhưng cũng làm đất nước này kiệt quệ. Hai năm sau khi kết thúc cuộc chiến với Pháp, nước Anh lại xảy ra nội chiến kéo dài 30 năm- gọi là chiến tranh “hai hoa hồng” do hai tập đoàn phong kiến York và Lancaster (biểu tượng hoa hồng trắng và đỏ) tranh giành quyền thống trị. Cuối cùng cả hai đều kiệt sức. Dòng họ Thewdor thừa cơ nhảy lên nắm chính quyền. Đến cuối thế kỉ 16, nước Anh mới có thể tập trung ổn định xây dựng đất nước, mở mang văn hóa.

Xu thế lịch sử ở châu Âu bấy giờ là tiến tới chủ nghĩa tư bản, nước Anh cũng vậy. Từ thế kỉ 16 nước Anh mau chóng đuổi kịp và vượt những nước đi trước. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa từng bước hình thành phát triển ở miền Nam nước Anh. nơi đây có truyền thống công thương nghiệp với mặt hàng len dạ xuất khẩu , kéo theo sự phát triển nghề chăn nuôi cừu. Bọn địa chủ mới được nhà vua hỗ trợ bằng các đạo luật đã rào đất cướp ruộng, xua đuổi hàng ngàn nông dân ra khỏi làng quê, chiềm đất làm bãi cỏ nuôi cừu . Nông dân đi lang thang  kiếm sống đầy đường xá, rồi bị hút về những xí nghiệp, công trường với đồng lương rẻ mạt. Nhà nước ban đạo luật “cấm lang thang”để tiếp tay cho giới chủ công thương. (Dưới triều vua Henry III 1509 -1547, cha của nữ hoàng Elisabeth I 1558-1603 – đã có 72000 người dân lang thang bị giết hại dã man: nung sắt đỏ dí bả vai, tái phạm bị chặt đầu hoặc treo cổ). Nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra, đặc biệt năm 1607 lôi cuốn cả miển Trung nước Anh và bị dìm trong máu lựa. Nước Anh thời  hakespeare tua tủa những giá treo cổ và thớt chặt đầu. Thợ thủ công bị rút kiệt sức trong hầm mỏ, công trường. Ngày làm việc không giới hạn từ 12 đến 14 giờ , tiền công rẻ mạt. Nữ nhận tiền công ít hơn nam, thợ học việc không có lương. Khi nông dân khởi nghĩa có công nhân hỗ trợ. Còn giai cấp tư sản và quí tộc mới lên đã ủng hộ nhà vua chống lại các lãnh chúa địa phương nhằm thống nhất đất nước, thống nhất thị trường và bành trướng thế lực ra nước ngoài.

Kết quả là dưới thời Thewdor, nước Anh trở thành quốc gia thống nhất. Đến thời Nữ hoàng Elisabeth I, nước Anh trở thành cường quốc cạnh tranh với Tây ban nha -nước mạnh nhất thời đó. Sau khi đánh thắng hạm đội Tây ban nha 1588, Anh trở thành bá chủ Đại Tây Dương, từ đó giao thông buôn bán, mở thêm thị trường và thuộc địa của Anh càng phát đạt .
Các sử gia Anh thường ca ngợi thời kì này  là  thời kì “The Merry England” khi nó trở thành cường quốc số 1 của châu Âu. Hạm đội Anh dẫn đầu các thuyền buôn đi khắp các châu Mĩ Á Phi. Vàng bạc của cải trên các thuyền tàu Tây ban nha, Bồ Đào nha từ châu Mĩ trở về bị tàu Anh cướp lại khá nhiều. Thị trường Anh sầm uất, đất nước phồn vinh. London thủ đô Anh trở thành trung tâm văn minh của cả châu Âu.

Triết học, kinh tế học, khoa học tự nhiên, kĩ thuật và văn học nghệ thuật Anh vuợt lên địa vị tiên tiến ở châu Âu. Tuy nhiên đằng sau bộ mặt vui vẻ phồn vinh đó là những biến động dữ dội của sự quá độ lên chủ nghĩa tư bản chứa đầy mâu thuẫn giai cấp gay gắt săn sàng bùng nổ. Cũng không nên quên rằng sự phồn vinh ấy dựa trên máu và nước mắt của dân chúng thợ thuyền Anh nữa, ấy là chưa kể đồ ăn cướp và bóc lột thuộc địa .
VĂN HÓA PHỤC HƯNG ANH ra đời muộn trong bối cảnh nói trên nhưng khi bùng phát thì nó lại đạt thành tựu lớn như đà tăng trưởng nhanh của nền kinh tế nước này. Nhìn chung nó cũng mang những tính chất Phục Hưng như các nước Tây Âu khác ở lục địa:
+ tinh thần chống chủ nghĩa ngu dân, chủ nghĩa giáo điều kinh viện trung cổ nhằm giải phóng trí tuệ  con người
            + tinh thần khẳng định cuộc sống trần thế
            + tinh thần đòi hỏi tự do cá nhân
            + niềm phấn khởi trước chân trời rộng mở của khoa học ( thiên văn địa lí …)
            + niềm say mê vẻ đẹp của những tác phẩm cổ đại Hi Lạp  vừa được phát hiện .

Bên cạnh những tính chung, văn học Phục Hưng  Anh còn có những nét riêng của đất nước và lịch sử Anh, truyền thống văn nghệ Anh chi phối. Mâu thuẫn nội bộ giai cấp Anh – một quốc gia tư bản điển hình là gay gắt nhất. Ở đây sự cạnh tranh, phân biệt phân hóa giàu nghèo ghê gớm, sự lộng hành của đồng tiền và tội lỗi, lương tâm nhân phẩm bị thử thách dữ dội, cuộc đấu tranh thật khốc liệt .

Hơn đâu hết, ở nước Anh hai mặt tươi sáng  và đen tối tương phản  đối lập nhau rõ rệt . Để phản ánh sự đối lập  và mâu thuẫn gay gắt ấy, văn học Anh đã tìm thấy thể loại kịch đáp ứng tốt hơn cả. Nước Anh vốn có truyền thống kịch dân gian lâu đời từ thời trung cổ . Dòng kịch tôn giáo và kịch dân giã đã từng phát triển tuy còn thô sơ nhưng cũng phần nào đáp ứng dân chúng. cuối thời trung cổ, kịch tôn giáo mờ nhạt tính thần bí nhường chỗ cho luân lí đạo đức .

Sang thế kỉ 15, các tác phẩm văn nghệ Hi Lạp La mã và Phục Hưng Ý, Tây ban nha lan toả đến nước Anh. Nền kịch Anh học tập được rất nhiều ở hai nguồn này, nhất là nguồn bi kịch và hài kịch. Trong khoảng từ 1580- 1642 sân khấu Anh sôi động chưa từng thấy  . Nhiều tác giả, nhiều xu hướng đua nhau nảy nở. Thủ đô London lúc ấy có hai trăm nghìn dân mà có đến 10 rạp hát. Những rạp lớn chứa được cả nghìn người, như rạp The Swan  (Thiên Nga), rạp The Globe (Địa Cầu) có thể chứa 3000 chỗ  kể cả đứng. Rạp hát  phân ra nhiều hạng vé, thường diễn vào buổi chiều.

Trước khi nhà thơ Shakespeare chiếm lĩnh sân khấu Anh thì hai nhà soạn kịch Keat và Maclove là hai tác gỉa lớn nhất trên kịch trường Anh. Shakespeare tiếp thu cả hai ông và sáng tạo một phong cách nghệ thuật  kịch đặc sắc làm rạng rỡ nền kịch Anh và kết thúc giai đoạn cuối Phục Hưng Tây Âu.

Văn học phương Tây ( Bi kịch Hy Lạp )

BI KỊCH HI LẠP

Bi kịch Hi Lạp là một vẻ đẹp đặc sắc của Hi Lạp cổ đại, là một thành tựu quan trọng vào bậc nhất của nền văn học này. Bi kịch là một bước phát triển cao của nghệ thuật  thi ca Hi Lạp  (Mĩ học- Hegel) ra đời trong khoảng thế kỉ thứ 6 đến thế kỉ 4 trước C.N- thời kì hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ.
Thành bang Athens là nơi khai sinh những khúc hát dithyrambe- nguồn gốc của bi kịch, nơi chứng kiến những cuộc xung đột giũa tầng lớp quí tộc cầm quyền và nhân dân lao động. Ngoài ra còn có mâu thuẫn giữa tầng lớp quí tộc ruộng đất bảo thủ chuyên chế và tầng lớp chủ nô công thương đối lập với tầng lớp dân tự do theo trào lưu tự do dân chủ.
Đây là thời kì nền văn hóa Athens phát triển toàn diện. Những ngôi đền thờ thần linh xây bằng đá cẩm thạch trắng, tượng ngà voi và vàng (pho tượng Zeus và Athena), hoặc đúc bằng đồng đồ sộ. Đồ gốm có những bức họa vẽ điển tích thần thoại. Thời kì thịnh vượng này bị quân xâm lược Ba Tư nhiều lần xâm lược. Dân chúng phải đổ bao xương máu để trả giá cho sự thịnh vượng của thành Athens. Nơi đây cũng là trung tâm nảy sinh mâu thuẫn xung đột xã hội. Đất nước Hi Lạp  đạt bước phát triển cao về mọi mặt kinh tế chính trị,  quân sự và văn hóa. Tuy vậy, để đạt được bước tiến đó nhân dân Hi Lạp  và nhân loại nói chung phải trả giá khá đắt vì đây làsự mở đầu kỉ nguyên đau khổ của nhân loại. Biết bao tấn bi kịch xã hội nảy sinh. Văn học nghệ thuật phải sáng tạo một loại hình nghệ thuật  mới để phản ánh những xung đột gay gắt không thể hòa hoãn- đó là bi kịch .
Thể loại bi kịch thỏa mãn nhu cầu cuộc sống tinh thần của lớp người đã có tư tưởng tự do – dân chủ, đã biết ý thức  về vai trò của cá nhân đối với thế giới, với cuộc sống xã hội. Họ suy tư trăn trở về cuộc đấu tranh của con người thời đại, sẽ phải gồng mình lên đương đầu với số mệnh, với cuộc sống và chấp nhận sự đụng độ một mất một còn. Các lực lượng xã hội mới tiến bộ như quí tộc công thương, thợ thủ công, tiểu chủ đã nắm lấy bi kịch như một vũ khí đấu tranh chống lại giai cấp quí tộc ruộng đất để khẳng định khát vọng dân chủ của mình. Biểu hiện đầu tiên là việc thờ cúng thần Rượu nho Dionisote ngày càng phổ biến lấn át các vị thần khác Thần Rượu nho đem lại lợi ích cho giới công thương và tiểu chủ và cho cả đất nước Hi Lạp. Đến thế kỉ 6 trước C.N tiếm vương Pidisterate cho mở lễ hội lớn cúng Thần Rượu Nho hàng năm. Vở bi kịch đầu tiên ra mắt công chúng với nội dung thuật lại cuộc đời gian truân, đau khổ của Dionisote.Từ đề tài thần Dionisote, các nhà soạn kịch mở rộng ra nhiều nhân vật khác nữa.
Ban đầu, vở diễn chỉ có một dàn đồng ca, sau đó một diễn viên tách ra ứng diễn trả lời, đáp lại những lời hát của dàn đồng ca. Dần dần số diễn viên tách ra ngày càng nhiều hơn . Người ta còn đeo mặt nạ cho diễn viên .
Mỗi năm nhà vua mở cuộc thi diễn kịch. Mỗi tác giả dự thi bộ ba vở bi kịch và một vở hài kịch nhỏ. Số vở kịch còn sưu tầm được ngày nay chỉ là số nhỏ còn sót lại .
GIỚI THIỆU BA TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU

1 . ESCHYLE VÀPROMETHE  BỊ XIỀNG
Eschyle (525 – 456 tr.C.N)  là cha đẻ của bi kịch cổ đại Hi Lạp (nhận xét của Engels)  Ông là nhà thơ của thời kì dân chủ hình thành với những xung đột gay gắt của nó. Là thi sĩ và cũng là chiến sĩ trong ba trận chiến thắng lừng lẫy của người Hi Lạp: trận Maraton, trận Salamin và Plate. Ông đã viết tất cả 90 vở kịch, nay chỉ còn lại 7 vở
Các vở Bảy tướng đánh thành Thebes,  Quân Ba Tư, Oresti, Agamennon, Các nữ thần ân đức, Những người thiếu nữ cầu xin, Những người phụ nữ mang đồ tế lễ .v.v..
Vở bi kịch “Promethe bị xiềng“ (có thể viết năm 469 ?) là tác phẩm nổi tiếng nhất của ông và là vở tiêu biểu cho giai đoạn đầu của bi kịch Hi Lạp. Cốt truyện cũng mượn từ thần thoại  Hi Lạp nhưng chỉ xoay quanh phần  xung đột quyết liệt nhất
Vị thần Promethe là hiện thân của lí trí, thắng lợi đầu tiên của con người khi tìm ra lửa .
Promethe là một thần titan (khổng lồ) xuất hiện ở đầu vở kịch như một kẻ phạm tội ăn cắp lửa của trời đem cho loài người. Đó là hành động vô cùng cao cả  đưa loài người ra khỏi tối tăm ngu muội và họa diệt chủng, lại tiếp tục nâng con người lên giai đoạn văn minh
Chàng nói:“loài người khốn khổ kia, hắn (thần Zeus) không hề bận tâm nghĩ đến các người. Hắn còn muốn tiêu diệt loài người để tạo ra giống loài khác. Thế mà không một ai phản đối trừ ta. Ta đã cố tình phạm tội, chính vì muốn cứu vớt loài người, ta đã tự chuốc lấy đau khổ hôm nay“
Hình tượng Promethe – người chiến sĩ với khát vọng cháy bỏng về tự do và đấu tranh đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho Karl Marx (Các Mác) viết luận văn tiến sĩ triết học của mình. Theo lời Marx “triết học xưa nay bao giờ cũng đấu tranh cho Tự do của loài người, do đó Promethe là vị thánh đầu tiên, người tuẫn tiết đầu tiên trong lịch sử triết học“ .
Là người chiến sĩ đấu tranh cho Tự do mà “tự do là sự nhận biết cái tất yếu“ (Marx), Promethe đã chỉ ra rằng “ông vua đương vị ấy rồi đây sẽ bị tống cổ một cách nhục nhã“ . Nghĩ về bản thân mình, Promethe cũng ý thức được rằng:”đã là kẻ thù thì phải chịu đựng sự ngược đãi của kẻ thù, điều đó chẳng có gì xấu xa“ .
(ghi chú: Promethe nguyên gốc tiếng Hi Lạ Promethens nghĩa là: tiên tri )
Đây là vở kịch thứ hai trong bộ ba: Promethe người mang lửa, Promethe bị xiềng và Promethe được giải phón . Vở thứ nhất và vở thứ ba mang dáng dấp anh hùng ca, riêng vở thứ hai mở ra thể loại bi kịch nên chúng ta chỉ nghiên cứu vở này.
NHÂN VẬT
Thần Quyền Lực
Thần Bạo Lực
Hephaistote: Thần Thợ Rèn
Promethe
Pozeidon (hoặc Neptun): Thần đại dương
Mười vị  nữ thần
Hecmet : Thần Truyền Tin
Đội Đồng Ca: gồm các nàng Osealite.


2. SOPHOCLE   VÀ   “EUDIPE LÀM VUA
Sophocle (496 – 406) được mệnh danh là “nhà thơ của thời kì dân chủ cực thịnh“
Ông là người am hiểu nghệ thuật kịch hơn ai hết và muốn kịch phải thực sự là hình ảnh của cuộc sống. Với kịch, ông đã tạo ra những “đòn sấm sét tâm lý”, những đám cháy lương tâm“ hết sức hồi hộp và hứng thú. Sophocle đã đưa bi kịch lên tới mức hoàn mĩ của thể loại bi kịch phức tạp (nhận xét của Aristote – Poetics). Nhân vật của ông là những nhân vật lí tưởng – “những con người cần phải như thế”. Sáng tác của ông gồm 120 vở, trong đó 24 vở đạt giải nhất quốc gia, nay chỉ còn lại 7 vở. Tiêu biểu nhất là vở “Eudipe làm vua” “Angtigon” là vở kịch bằng thơ, khai thác đề tài từ truyền thuyết về thành Tebơ. Trong cuộc chiến tranh giữa Acgôx và Tebơ, hai người anh ruột của Angtigon đều tử trận. Theo huyết thống Crêông lên thay Êtêôclơ trị vì thành Tebơ. Sau khi lên thay Crêông không cho bất cứ ai chôn cất thi hài Polinix. Xót tình máu mủ, Angtigon một mình làm những nghi lễ mai táng cho anh. Sau đó nàng bị bắt và Crêông quyết trừng phạt nàng bằng cách giam nàng vào trong ngôi nhà mồ của dòng họ nàng. Bất bình trước việc làm tàn ác của cha đối với người vợ sắp cưới của mình nên Hêmông ra sức khuyên can cha nhưng không được. Cuối cùng khi Crêông ra lệnh phóng thích Angtigon thì nàng đã thắt cổ tự vẫn. Hêmông cũng kết thúc đời mình bên xác người yêu. Ơrydix- mẹ của Hêmông sau khi biết tai hoạ nói trên cũng dùng kiếm tự sát.Vở kịch kết thúc bằng sự nhận ra lỗi lầm của Crêông.
Kịch của Sophocle đa dạng về mặt đề tài, phong phú về mặt nội dung và giàu tính triết lý. Xung đột xảy ra thường là những con người cao quý trọng danh dự, giàu tình nghĩa và giàu tính nhân bản với những thế lực độc đoán, bạo tàn. Mở đầu vở kịch, Angtigon bộc lộ ý định chôn cất thi hài người anh với lời lẽ hết sức cảm động khi nói với đứa em của mình :”Chồng này chết đi, em còn lấy được chồng khác và sinh con đẻ cái với người ta, còn cha mẹ chúng ta đã chết rồi, làm sao còn sinh cho em một người anh khác nữa”.
Trước thái độ tàn nhẫn của Crêông, nàng nói:”Tôi sống để yêu thương chứ không phải sống để căm thù”. Xung đột giữa Angtigon và Crêông theo Hêghen thì “đó là xung đột giữa lợi ích gia đình và lợi ích quốc gia”, nói một cách khác đó là xung đột giữa đạo lý và pháp lý. Vậy giữa hai cái đó đâu là chân lý. Ta hãy nghe Hêmông- người yêu của Angtigon đồng thời là con của Crêông biện luận trong cuộc đối thoại sau :
Crêông (C) : Thế con kia không phản nghịch là gì ?
Hêmông (H) : Tất cả nhân dân thành Thebes  này không ai nghĩ rằng  nàng như vậy cả.
C : Thế ra ta phải tuân theo mệnh lệnh của nhân dân thành bang này hay sao?
H : Cha trả lời hệt như trẻ con. Chắc cha cũng biết thế ?
C : Vậy ta cai trị đô thị này cho một người khác hay sao ?
H : Không có quốc gia nào là của riêng một người nào cả !
C : Một đô thị không phải là của một người đứng đầu thì là của ai ?
H : Nếu đô thị ấy không có người thì cha cai trị ai ?
C : À té ra thằng này bênh vực cho đàn bà nhỉ ?
H : Thưa cha, nếu cha là người đàn bà, thì chính con là người bênh vực đàn bà, vì ở đây con chỉ biết có bênh vực cha thôi !
C : Đồ bất hiếu ! Mày dám buộc tội cha mày à?
H : Bởi vì con thấy cha xúc phạm đến Thần công lý?
Luật pháp mà Hêmông và Angtigon bảo vệ là luật pháp của thần công lý. Đó là luật pháp được nhân dân lưu truyền và gìn giữ. Nó là luật pháp nhân đạo và đó là chân lý vì nó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Ý nghĩa đích thực của hình tượng Angtigon là ở chỗ đấu tranh cho sự khẳng định chân lý đó.
Khác với Eschile miêu tả thế giới thần linh với các mâu thuẫn và những ý chí chi phối cuộc sống con người, bi kịch của Sophocle miêu tả thế giới con người với những đau khổ, buồn vui do chính bản thân họ gây nên. Sophocle đã kéo bi kịch từ “trên trời xuống hạ giới”. Thể hiện ở chỗ ông để cho nhân vật của mình hành động hoàn toàn độc lập và chịu trách nhiệm về số phận của mình. Các vị thần linh trong kịch của ông bị đẩy lùi ra phía sau sân khấu. Bi kịch ở đây hoàn toàn do con người gây nên. Angtigon có kết cấu rất chặt chẽ, hành động thống nhất, đối thoại sắc xảo, giàu xung đột kịch tính là điểm nổi bật tài năng Sophocle.

Trước khi phân tích vở kịch này, chúng ta hãy nghiên cứu những đặc trưng bi kịch mà đến giai đoạn Sophocle nó mới định hình và đạt tới tác phẩmbi kịch mẫu mực .
Bi kịch là thể loại có truyền thống lâu đời . Theo dòng lịch sử, nó tiếp tục không ngừng phát triển qua từng giai đoạn, thậm chí đổi mới ở từng tác phẩm lớn .
Bi kịch hiện đại vẫn còn kế thừa tinh hoa của bi kịch truyền thống. Bởi vì thể loại cũng có  “kí ức“, nó không quên cội nguồn đã sinh ra nó.
Bi kịch Hi Lạp là sản phẩm văn hóa của nền dân chủ – chủ nô Athens. Do đó khi chế độ này chấm dứt vai trò lịch sử của nó thì bi kịch cũng rút lui.
Tuy nhiên, giá trị tư tưởng – nghệ thuật  của nó là bất diệt, tiếp tục được kế thừa  trong tất cả bi kịch của những thời đại sau đến tận ngày nay .
Bi kịch tạo ra được hiệu quả thẩm mĩ là “thanh lọc tình cảm thông qua xót thương và sợ hãi“.(Poetics – Aristote. Sự xót thương nảy sinh khi vở kịch trình bày cảnh người vô tội chịu điều bất hạnh, và sợ hãi nảy sinh khi thấy một người giống như ta lại gặp điều bất hạnh”.
Bi kịch là sự bắt chước một hành động hoàn chỉnh, nó cố hết sức mình để kết thúc  trong vòng một ngày , xảy ra ở một nơi và xoay quanh một hành động chính – đó là quy tắc “tam duy nhất“ mà Aristote đã đúc kết qua nhiều vở kịch thành công.
Có ba lí do chọn vở “Eudipe làm vua” làm tác phẩm bi kịch mẫu mực:
Đề tài và sự tích vua Eudipe có ý nghĩa đặc biệt  trong lịch sử văn học châu Âu. Hầu như trong giai đoạn nào cũng có tác giả lớn tìm đến đề tài này mà tiếp tục khai thác. Ngay thời cổ đại, cả ba tác giả lớn chứ không riêng Sophocle sáng tác về vua Eudipe .
Trong cuốn Thi pháp (Poetics) của Aristote, vở kịch này được nhắc đến nhiều nhất, góp phần khẳng định lí luận về bi kịch. Về sau, nhà soạn kịch Pháp thế kỉ 17 Corneill và nhiều nhà soạn kịch Tây Âu đều phải công nhận vở “Eudipe làm vua” là “hiện thân tuyệt đối của tư tưởng thể loại”.
Vở kịch dựa theo  “Truyền thuyết cổ xưa về vua Eudipe“ lưu hành với nhiều dị bản .
Nguyên văn tựa đề là:  Eudipe – tiranos (nghĩa là Eudipe – kẻ tiếm quyền).
Tóm tắt truyển thuyết như sau:
Các vị thần linh phán truyền lệnh cấm vua Laios và hoàng hậu Jocaste ở thành Thebes sinh con nối dõi. Nếu trái lệnh thần linh, đứa con sẽ phạm tội giết cha lấy mẹ Nhưng họ lại lỡ sinh được một đứa con trai. Hoảng sợ, hai người sai một đầy tớ đem đứa bé vào rừng sâu vứt bỏ. Đứa bé bị xâu chân bằng một sợi dây thép nên chân sưng tấy lên, người đầy tớ gọi là thằng bé Eudipe (nghĩa là chân sưng). May thay anh đầy tớ động lòng thương đứa bé nên giao cho một người chăn cừu ở xứ Corinte láng giềng đem đứa bé làm con nuôi đi biệt tích.Người chăn cừu đem đứa bé sang nước láng giềng Corinte rồi đem dâng cho vua và hoàng hậu không có con để làm con nuôi .Họ rất mừng, nuôi đứa bé nuông chiều hết mực, cho học hành luyện tập trở thành một hoàng tử tài giỏi. Eudipe lớn lên không hề biết rõ nguồn gốc thực sự của mình.
Tình cờ trong một buổi tiệc rượu , một viên quan say rượu đã nói chàng không phải con đẻ của nhà vua . Chàng buồn bã hỏi cha mẹ . Mọi người đều khẳng định chàng là hoàng tử ruột . Vẫn còn hoài nghi , chàng vào đền thờ thần hỏi về nguồn gốc của mình . Vị thần trả lời “ ngươi sẽ giết cha và cưới mẹ . Kinh hoàng vì lời phán truyền , Eudipe lẳng lặng bỏ xứ Corinte ra đi để tránh lời nguyền. Đến một đoạn đường hẹp, chàng gặp một cỗ xe ngựa có lính hộ tống một ông già ngồi trên xe. Đám lính hách dịch quát mắng chàng phải tránh đướng cho xe qua. Chàng nổi giận đánh trả những tên lính thô bạo và giết chết toàn bộ đoàn xe trừ một người hầu nhanh chân bỏ chạy thoát thân .Người ngồi trên xe chính là vua Laios , còn người chạy thoát lại là lão đầy tớ ngày xưa đã đem Eudipe vào rừng .
Chàng Eudipe tiếp tục cuộc hành trình hướng về thành Thebes định mệnh .Lúc này thành Thebes gặp tai họa liên tiếp. Vua vừa bị một đám cướp giết chết  theo lời người đầy tớ thoát thân về thuật lại) thì xuất hiện một con quái vật tên là Sphinx . Nó là một con nhân sư – thân mình sư tử đầu người khuôn mặt khá giống phụ nữ.Nó đứng ở ngã ba đường chặn cửa vào thành Thebes đưa ra câu đố : “Con gì sáng đi bốn chân, trưa di hai chân, chiều đi ba chân ? “.Ai không trả lời đúng bị  nó ăn thịt. Nhiều người dân thành Thebes đã bị nó giết hại. Hoàng hậu vừa góa chồng đành phải ra thông cáo tìm người tài giỏi giải đáp câu đố của con quái vật, ai đáp được sẽ nhường ngôi vua. Eudipe nghe thông báo liền nhận lời . Chàng gặp con Sphinx và trả lời – “đó là con người“. Con quái vật xấu hổ chịu thua và biến mất .
Dân chúng thành Thebes thoát nạn, hoàng hậu giữ lời cam kết, đưa Eudipe lên làm vu . Chàng hoàng tử lang thang nhờ trí tuệ bước thẳng lên đỉnh vinh quang và quyền lực. Và khoảng cách từ chiếc ngai vàng đến cái giường của hoàng hậu chẳng bao xa, vua trẻ Eudipe đã cưới hoàng hậu Jocast. Họ sống hạnh phúc, sinh hai trai hai gái .
Cốt truyện kịch chỉ bắt đầu từ đây:
Một tai họa mới giáng xuống dân chúng thành Thebes: mất mùa trồng trọt, gia súc chết toi, đàn bà không sinh nở được. Dân chúng chỉ còn trông chờ trí tuệ siêu phàm của nhà vua trẻ tài ba Eudipe cứu dân. Thần linh phán truyền rằng tai họa đó là sự trừng phạt thành Thebes phạm tội đang chứa chấp kẻ giết vua Laios . Muốn tránh khỏi tai họa phải tìm ra và trừng trị kẻ sát nhân. Vua Eudipe quyết tâm truy tìm thủ phạm. Nhà tiên tri mù Tiretias được vua mời đến. Lúc đầu ông từ chối trả lời, sau bị vua ép quá ông buộc phải nói ra sự thật – chính Eudipe là thủ phạm! Nhà vua nổi giận trước sự tố giác quá bất ngờ . Nhưng điều đó khiến Eudipe trăn trở suy tư tìm hiểu lai lịch của mình. Tình cờ người chăn cừu ngày xưa xuất hiện, thuật lại những sự kiện trước đây , khiến Eudipe càng nghi ngờ lai lịch của mình … Người đầy tớ già bị ép phải nói sự thật, và ông lão đã thú nhận mọi chuyện ngày xư . Trong quá trình điều tra, hoàng hậu Jocaste đã đoán biết sự thật nên lo sợ mà can ngăn vua thôi không điều tra nữa. Nhung vua  quyết tâm đi đến cùng . Khi sự thật được sáng tỏ, hoàng hậu đã thắt cổ tự vẫn. Trước thi hài của hoàng hậ , vua Eudipe rút cây trâm tự chọc thủng đôi mắt mình để tự trừng phạt thủ phạm.  Rồi chàng bỏ kinh thành Thebes ra đi tự lưu đày tha phương.  Vở bi kịch kết thúc.
Truyền thuyết còn kể thêm đoạn chót. Một trong hai con gái của họ đã tự nguyện theo cha đi lang thang để săn sóc người cha mù lòa. Cuối cùng, nhà vua Eudipe chết rụi  ở một xó rừng.
Cũng như những tác phẩm lớn, “Eudipe làm vua” lung linh nhiều tầng ý nghĩa. Trải qua mỗi thời đại, người ta lại phát hiện những ý nghĩa mới, sự tranh luận không bao giờ cạn
1) Quan điểm phê bình truyền thống cho rằng vở kịch nhấn mạnh tư tưởng về sự phù phiếm của vinh quang và sự mỏng manh của hạnh phúc đời người. Quan điểm của giới văn học bi quan cho rằng vở bi kịch này chỉ là sự ý thức về cái phù phiếm của con người. Họ bám chặt những lời ca của dàn hợp xướng: “Ôi  hỡi con người tội nghiệp ! Thế hệ này qua thế hệ khá , ta chỉ thấy ở các người một sự hư vô ”.
Họ căn cứ vào lời hát kết thúc của dàn đồng ca hợp xướng:”Vinh quang của thành công như ánh hào quang mặt trời chói lọi nhưng rồi sẽ tắt lịm khi trời đã về chiều“. Vua Eudipe đã đạt tới tột đỉnh vinh quang hạnh phúc mà phút chốc tất cả đổ sụp .Eudipe thấm thía nỗi cay đắng của bất hạnh. Số phận con người như chiếc thuyền lênh đênh trên biển rộng. Con thuyền Eudipe ghé vào thành Thebes, rồi ghé vào giường hoàng hậu, tưởng rằng đó là nơi yên ổn. Nào ngờ chính nơi ấy là vực thẳm. Nhiều nhà văn lớn về sau cũng có cách nhìn hiện thực cuộc sống một cách tỉnh táo như vậy. Con người duy trì và xây dựng cuộc sống với bao lo toan và nỗ lực nhằm tạo ra những giá trị thực đóng góp cho cuộc sống. Nỗ lực tìm tòi chân lí  theo nghĩa rộng bao gồm cả cái Đẹp và cái Thiện.
Dù sao tác phẩm này vẫn có ý thức xây dựng chứ không phải như những tác phẩm hiện đại theo chủ nghĩa hư vô phù phiếm suy đồi.
Phê phán quan điểm suy đồi:
Những triết gia và thi sĩ suy đồi đời sau đã coi lời hát ấy là tư tưởng chủ đạo của tác phẩm . Sai lầm của họ là đem tách “một lời hát – một chi tiết“ ra khỏi toàn cảnh mà quên tập trung nghiên cứu tác phẩm như một chỉnh thể, nhất là cần phải chú ý đến cao trào xung đột  .  Đấy chỉ là một thói thường của người đời: lẩy ra một đôi câu văn, câu thơ  từ một  tác phẩm nào đó để áp dụng  cho những cảnh đời khác theo lối “tư biện“ .
Vở bi kịch “Eudipe làm vua” sẽ không phải là một kiệt tác của nhân loại nếu tư tưởng chủ đạo của nó là triết lí về sự phù phiếm của vinh quang và hạnh phúc.


2 ) Quan điểm phê bình hiện đại
Cho rằng tư tưởng về sự phù phiếm của vinh quang hạnh phúc chỉ là phụ , có một tư tưởng quan trọng hơn thể hiện trong vở bi kịch- đó là cảm hứng chân lí, cảm hứng khát khao sự thật. Ấy là chưa kể đến ước mơ của nhân dân về một minh quân của đất nước. Và bao trùm hơn nữa là triết lí về khả năng của con người trong việc khám phá thế giới và khám phá ngay bản thân mình.
Ngay ở nước ta, trong những giai đoạn trước đây, văn học chú trọng nêu cao yêu cầu đấu tranh cho Tự do hơn là yêu cầu Chân lý. Thực ra hai mục tiêu này gắn bó mật thiết với nhau. Hãy đọc lời tâm sự của nhà văn Maxim Gorki: “Sự thật là tôn giáo của người tự do, dối trá là tôn giáo của kẻ nô lệ.
Trong vở bi kịch của Sophocle, chủ đề “tìm tòi sự thật” đã được triển khai ngay từ đầu ở nhân vật chính- Eudipe. Chàng khát khao muốn biết rõ lai lịch của mình. Nhân vật phụ nhưng rất quan trọng là nhà tiên tri mù Tiretias đã không sợ sự trừng phạt, dám công bố sự thật phũ phàng.
PHÂN TÍCH HAI NHÂN VẬT TIRETIAS VÀ EUDIPE
Nhân vật Tiretias
Nhà tiên tri mù lòa có năng lực tiên tri phi thường, hiểu thấu mọi việc đã qua và thấy trước việc phải đến. Khi được triệu vào cung, ông đã chỉ ra đích danh thủ phạm giết vua. Nhà vua nổi giận la thét đe dọa. . . ông không hề nao núng và không chịu cải chính. Ông trả lời “Ta chẳng có gì phải sợ hãi vì ta  nuôi trong mình sức mạnh của chân lí“ . Ông biết sự thật và tin ở sức mạnh và uy tín của nó. Lúc đầu ông từ chối trả lời chỉ vì thương xót, tiếc rẻ một nhà vua trẻ phải đau khổ quá sớm khi nhận ra sự thật phũ phàng của y. . Lúc ấy ông không định che giấu sự thật mà chỉ vì ông tin rằng sớm muộn sự thật cũng được công bố, lúc này còn sớm quá, không nỡ lòng. . . Nhưng khi vua Eudipe nài ép, lại toan đổ tội cho ông đồng lõa với thủ phạm thì cực chẳng đã ông phải trả lời, mà khi đã nói thì ông quyết giữ lời, kiên quyết bảo vệ chân lí.
Nhân vật chính Eudipe – nhân vật bi kịch
Điều đẹp đẽ nhất của nhân vật chính Eudipe là thái độ dũng cảm của con người trước sự thật về chính bản thân mình . Nhưng trước đó, cảm hứng tìm kiếm sự thật đã phải trải qua những thử thách ghê gớm .
Lúc đầu, Eudipe sốt sắng mở cuộc điều tra với mục đích chân chính cứu dân thành Thebes khỏi tai họa do thần thánh trừng phạt . Quá trình điều tra khiến anh có thêm khao khát mới – sự thật về bản thân mình  và nỗi sợ hãi phạm  tội lỗi cũng phát sinh .
Trong mỗi giai đoạn điều tra, Eudipe đều có thể ngừng lại để xóa tội :
Khi nhà tiên tri nói ra sự thật chưa được chứng minh , Eudipe chỉ nổi giận xỉ mắng nhà tiên tri chứ không trừng phạt hoặc thủ tiêu ông ta để giấu tội.
Sau khi người chăn cừu nói ra một phần sự thật: Eudipe không phải là con đẻ của vua xứ Corinte. Ánh sáng sự thật đã le lói. Eudipe vẫn còn khả năng dập tắt hẳn. Anh  dày vò trăn trở, giằng xé. Chỉ cần vài bước nữa sẽ tới sự thật, một sự thật khủng khiếp. Anh có dám bước tiếp hay không ?. Dàn hợp ca (và khán giả nữa) lo lắng  hồi hộp theo dõi. Hoàng hậu Jocaste nhạy cảm đã can ngăn anh thôi không điều tra nữa. Có lẽ bà sợ hãi sự thật.
Eudipe đã quyết định, quyết hành động theo ý muốn da diết, khắc khoải của mình là tìm ra sự thật. Anh ra lệnh cho gọi lão đầy tớ – nhân chứng của vụ án và nhân chứng của lai lịch Eudipe buộc phải nói sự thật.
Khi lão đầy tớ ra mặt, Eudipe vẫn còn khả năng ngừng lại. Nhưng không, anh chỉ chần chừ một thoáng, rồi đi tới. Chi tiết bí ẩn cuối cùng của vụ án bật ra, tâm hồn Eudipe rơi xuống vực thẳm. Nhưng đây cũng là sự chiến thắng của chính anh- sự tự nhận thức cao cả đã hoàn thành .
Và đó chính là ý nghĩa lạc quan sâu sắc của vở kịch. Nhà thơ Sophocle có cùng quan điểm với triết gia Socrat – “người đưa triết học từ trên rời cao xuống đất” rằng: “anh hãy tự biết lấy mình.
Quá trình nhận biết của Eudipe khá gay go. Anh đã sẵn sàng đi tìm bằng được sự thật nhưng cũng muốn bám lấy một cọng rơm mong manh để giữ lấy thân mình. Đí là chi tiết lão đầy tớ khai: “một đám cướp đông đúc hung dữ đã giết vua Laios”  đã khiến anh khấp khởi mừng thầm và hi vọng mơ hồ.
Xung đột chính của vở kịch là: anh vừa muốn biết sự thật lại vừa sợ hãi nó. Do vậy anh bị giằng xé, giữa tâm lí trăn trở và tâm lí tráo trở của mình.
Từ đó chúng ta có thể nói – kết quả  anh đã giành chiến thắng. Lí tưởng đã thắng lợi nhưng anh phải tự nguyện trả giá thích đáng ở màn chót.
Chúng ta hãy đánh giá tài năng của Eudipe:
Trước hết, Eudipe có một trí tuệ siêu phàm nên đã giải đáp được câu đố hóc hiểm của con Sphinx. Đấy là một câu hỏi triết học: hỡi con người  anh là ai ?
Nhìn chung anh đã hiểu thế giới, nhưng còn một điều quan trọng thì anh mù tịt- Eudipe là ai ? Như vậy, anh là kẻ tài giỏi hay ngu dốt ?
Thật ra vở kịch trình bày hai loại trí tuệ  tương phản nhau .
Một là loại trí tuệ giúp con người hiểu biết thế giới khách quan  khám phá được bí ẩn trong thế giới bên ngoài khiến anh ta có sức mạnh và quyền lực. Trí tuệ ấy giúp anh giải được câu đố hóc hiểm của con Sphinx và giành được ngôi vua. Khoa học tự nhiên và kĩ thuật  đem lại cho con người loại trí tuệ này.
Hai là loại trí tuệ của sự hiền minh, là ánh sáng bên trong giúp con người hiểu biết thế giới chủ quan của chính mình, rồi tiến tới làm chủ bản thân mình. Kẻ nào không biết thì là kẻ ngu dố, biết mà không sống như cái trí tuệ ấy dẫn dắt là kẻ dối mình Văn học nghệ thuật  đem lại cho con người loại trí tuệ này.
Vua Eudipe đã đạt được loại trí tuệ thứ nhất nhưng mù quáng về loại thứ hai – anh chẳng hiểu gì về bản thân mình. Đó là ngọn nguồn của bi kịch.
Eudipe dẫn tới chủ đề thứ hai: tham vọng quyền lực đến mức mù quáng cũng gây ra bi kịch. Ngay cái tựa đề vở kịch “Eudipe- Tiranos” nghĩa là “Eudipe kẻ tiếm quyền“ hoặc bạo chúa Eudipe cũng đã rõ. Số phận của y là số phận một bạo chúa. Hãy nghe dàn đồng ca hát rằng
                                   Thói kiêu ngạo quá đáng đẻ ra bạo chúa
Sự kiêu ngạo trong một đầu óc say sưa
Say quá hóa rồ, sai lầm dại dột
Nó sẽ leo cao leo lên tót đính
Để rồi ngã xuống tận vực thẳm sâu .
Tội giết cha là do vô tình ngộ sát, không biết cha là ai. Tội đó không có ý ngĩa phạm tội để giành quyền lực. Dàn hợp xướng chỉ than vãn về tội loạn luân. Nhưng nếu bảo loạn luân cũng do vô tình  không biết mẹ thì Eudipe vô tội chăng ?
Hành động thắng con nhân sư, theo truyền thuyết, có liên quan đến việc cưới hoàng hậu . Con nhân sư là giống cái. Eudipe thánh con nhân sư nghĩa là hiểu biết sự bí mật của nó. Theo quan niệm cổ đại,hôn nhân, ăn nằm với ai nghĩa là đã “biết người đó“. Kinh thánh Ki tô giáo cũng nói “Adam biết Eva và nàng có mang. Khi con nhân sư biến mất , ấy là lúc nó hỏa thân ẩn mình vào hoàng hậu Jocaste. Hoàng hậu lại trở thành “câu đố mới“ thách thức chàng Eudipe. Đến màn chót, khi Eudipe giải đáp được “câu đố mới“ ấy thì hoàng hậu treo cổ – biến mất.
Hành động cười hoàng hậu có ý nghĩa quan trọng nhất. Có phải là tội loạn luân như dàn đồng ca than vãn ?
Căn cứ vào mê tín và sách giải mộng của nền văn hóa cổ Hi Lạp còn lại, giấc mộng “ăn nằm với mẹ“ được giải thích như sau. Đó là giấc mộng lành đối với những thủ lĩnh, chính khách. Mẹ có nghĩa là “đất nước” là nguồn gốc sinh ra tất cả. Nằm mộng như thế là sắp được làm vua (làm chồng đất nước, hiểu biết đất nước). Hoàng đế La Mã Caesar từng kể đã nằm mơ cưỡng hiếp mẹ  và nhà tiên tri giải thích: ngài sẽ trở thành hoàng đế .
Eudipe lấy mẹ là bắt đầu nắm quyền cai trị đất nước. Chính hoàng hậu cũng thản nhiên an ủi Eudipe khi anh nghe lời đồn đại về mình: “Trên thế gian này có bao kẻ nằm mộng ăn nằm với mẹ mình” .
Hai mẹ con tuổi tác chênh lệch quá xa, không thể cho rằng anh lấy hoàng hậu vì say đắm dục vọng. Thật ra, đó là vì danh vọng, anh đã hành động chính trị để giữ chắc ngôi vua  mà thôi  Hành động ấy là quan trọng nhất- anh phải chịu trách nhiệm và tự trừng phạt .. .
3 )   Hành động tự trừng phạt của Eudipe:
Tự chọc mù mắt có ý nghĩa gì ?
Người Hi Lạp cổ nghĩ rằng con người có hai cặp mắt. Một “cặp mắt thịt” chỉ là giác quan bên ngoài, nhìn thấy cái biểu kiến của sự vật, có khi nó gây ra nhiễu cho con mắt tâm linh ở bên trong. Con mắt bên trong mới có khả năng nhìn thấu sự vật, nắm bắt cái thần của sự vật.. Khi người ta mù mắt, như nhà tiên tri Tiretias chẳng hạn, thì lại sáng lòng (sáng mắt bên trong). Do vậy nhà tiên tri tuy mù mà biết sự thật, còn Eudipe sáng mắt lại chẳng biết gì về bản thân mình. Nhà thơ Homer tác giả hai bộ sử thi vĩ đại bị mù và bắt đầu sáng tác, mặc dù truyền thuyết kể rằng thấy ông mù lòa, nữ thần thơ ca thương tình bèn nhập vào ông. Ca sĩ Demodek mù mắt thì bắt đầu hát hay. Cũng theo truyền thuyết, triết gia Democrite tự chọc mù để nghiên cứu những cái ông chưa hiểu biết được.
Sự việc Eudipe tự chọc mù mắt góp phần chót xác định chủ đề tư tưởng vở bi kịch. Phạm tội một cách vô thức có đôi chút do tham vọng nhưng sự trừng phạt là có ý thức, tự giác cao, bảo vệ công lí. trong phạm vi xã hội, vua Eudipe sụp đổ thất bại thảm hại. Trong lĩnh vực đấu tranh vươn lên bản chất người, y đã thắng bản thân và đây là chiến thắng lớn lao. Y quằn quại đau đớn giống như một cái chết. Y  “chết đi” để sống lại- đó là ý nghĩa lạc quan sâu sắc của vở bi kịch kết thúc vô cùng bi thảm này.
Tư tưởng lạc quan chính là đặc trưng cao nhất của thể loại bi kịch.
Theo thi pháp kịch truyền thống, khi tình thế bi kịch bị phá vỡ thì xảy ra tai biến. Đó là lúc báo hiệu tột đỉnh sự tiêu vong và tột đỉnh sự thắng lợi của nhân vật bi kịch. Phần kết thúc ắt phải có đau buồn và phấn khích, có chết đi và sống lại, có bi thảm và lạc quan. Vở Eudipe làm vua là vở tiêu biểu điển hình của thể loại bi kịch vậy .
Thật vậy, ta đi ngược về ngọn nguồn bi kịch là số phận thần Rượu nho Dionisos. Theo nghi lễ tế thần,những cảnh đau khổ của thần “chết đi sống lại” bao lần.
Tư tưởng “chết đi sống lại” có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như hành động văn hóa cơ bản nhất của con người: gieo trồng. hạt giống phải chết đi để rồi sống lại với cây mầm non và ra hoa trái. Đó là khát vọng của loài ngườivề lẽ sống và ước vọng trường tồn.
Nhân vật hoàng hậu Jocaste cũng phải chịu kết cục bi thảm- khi không ngăn cản được  sự thật, bà thắt cổ tự vẫn. Trước đó, bà cũng đã có sự lớn lên về nhân cách: bà đã biết sự thật nhưng bà ngăn cản Eudipe để một mình chịu đựng bi kịch của sự ô nhục. Khi Eudipe đã biết sự thật thì bà lại không chịu đựng nổi nữa nên tìm cách tự hủy diệt. Tuy vậy bà không phải là nhân vật bi kịch. Cái chết của bà không có ý nghĩa sâu xa mà chỉ là sự chấm dứt tồn tại – tức là phi tồn tại.
Cảm hứng chủ đạo của thể bi kịch là khẳng định sự bất tử của con người, bất tử ngay ở cõi trần gian (tôn giáo chỉ cầu mong bất tử ở thiên đường . Nhân vật bi kịch có thể chết nhưng giá trị nhân bản chân chính lóe ra, ngời sáng trong sự phát triển tiếp tục của nhân loại, sẽ đi vào kí ức và kinh nghiệm của nhân dân bất tử.
Sophocle còn những vở kịch đặc sắc khác như: Antigon, Những người phụ nữ Trasi  Ajax, Eudipe ở Cologne, Philoctet, Electre .
Euripide (484 – 406) và vở bi kịch “Medee”
Euripide được mệnh danh là “nhà thơ của thời kì dân chủ suy vong”, thời kì bộc lộ bản chất xấu xa của giai cấp thống trị. Những dục vọng nổi lên mãnh liệt ở mỗi cá nhân và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong xã hội. Nhân vật của Euripide được gọi là “nhân vật dục vọng“ luôn luôn day dứt dằn vặt vì ý đồ riêng. Họ chẳng còn là những nhân vật siêu phàm như của Eschyle, lí tưởng như của Sophocle. Bi kịch của Euripide không còn là “trường học của những tâm hồn cao cả“ mà là “phòng giải phẫu những căn bệnh xã hội“ .
Euripide viết được 90 vở, nay chỉ còn 19. Đặc sắc cách tân của ông là: lần đầu tiên đưa lên sân khấu sự phân tích tâm lí nhân vật. Ông được gọi là “nhà triết học trên sân khấu“
“Medee“ là một trong những vở bi kịch cảm động nhất, tiêu biểu nhất của thiên tài Euripide  .
Cốt truyện kịch cũng lấy từ truyền thuyết “Zadon sang xứ Consite đoạt bộ lông cừu vàng“
Nhờ sự giúp đỡ và tình yêu của Medee- công chúa xứ Consit, Zadon lấy được bộ lông cứu vàng-báu vật quốc gia mang về nộp cho ông chú Creon để đòi lại ngôi vua Hi Lạp. Medee bỏ đất nước chạy theo người yêu, dắt theo đứa em trai nhỏ. Trên đường đi, bị quân lính của vua cha truy đuổi, nàng giết em trai để cản bước những kẻ đuổi theo. Hai người về nộp bộ lông cừu vàng, ông vua chú tham lam  tráo trở yêu câu Zadon phải cưới con gái ông thì mới được nhận ngai vàng. Zadon  yêu Medee nên chối từ. Họ sống hạnh phúc bên nhau, sinh hai đứa con xinh đẹp. Một ngày kia, Zadon lại muốn giành lấy ngai vàng, liền tỏ ý muốn cưới công chúa Hi Lạp theo điều kiện của ông vua chú. Medee can ngăn, ghen tuông, giận dữ. Bị phụ tình, nàng trả thù khốc liệt. Đầu tiên, nàng dùng phép thuật giết chết kẻ tình địch (tặng chiếc khăn choàng làm thiêu cháy cả hai cha con công chúa Hi Lạp). Sau đó , nàng giết hai đứa con  rồi bỏ sang xứ khác.
Đây là vở bi kịch tình yêu vô cùng thảm khốc và đau xót. Nàng lên án Zadon  là kẻ vong ân bội nghĩa. Y ngụy biện khôn khéo để che giấu dục vọng của mình. Medee là một tính cách phụ nữ mãnh liệt từ đầu đến cuối, từ lúc nảy sinh mối tình đầu đến phút chót – nàng hóa điên .
Nhân vật chính của  tấn bi kịch là Medee. Từ dục vọng tình yêu say đắm thủy chung rất mực, khi bị phản bội, tâm lí Medee đã chuyển dạng thành dục vọng ghen tuông và trả thù dữ dội .  Nhà thơ trình bày cuộc đấu tranh nội tâm bão táp của Medee, cuộc giằng co giữa tình mẫu tử và khát vọng trả thù. Trước khi hành độn, nàng còn nói những lời xé lòng : “Các con ơi ! Hãy  đưa tay cho mẹ nắm… Ôi bàn tay thân thương, đôi môi yêu quí và mặt mày tuấn tú của các con tôi. Ôi làn da của chúng êm dịu biết nhường nào! Hơi thở của chúng  thơm tho biết bao nhiêu ! Ta không đủ can đảm nhìn con ta nữa. Ta đau đớn quá rồi. Phải, ta biết việc ta làm là tàn ác, nhưng dục vọng đã thắng ý chí ta rồi“. Kết cục của tất cả các nhân vật đều  bi thảm.
Một câu hỏi từng gây tranh luận bao lâu nay: vì sao Medee hành động tàn ác như  vậy mà nhân vật này vẫn được coi là nhân vật bi kịch ? Tạm giải thích rằng – Medee là nhân vật nhân danh phụ nữ mà hành động đòi quyền được yêu thương và chung thủy. Vở bi kịch còn là một lời  răn đáng sợ cho những kẻ bạc tình.
Euripide còn nhiều tác phẩm về người phụ nữ như: Andromac (vợ Hector), Helen (nguyên hoàng hậu Akay, chạy theo Paris sang thành Troie), Những người phụ nữ xứ Phenici , Những người đàn bà cầu xin, Iphigieni ở Olit. Những người đàn bà thành Troie, Những người con của Heracles . . .
Sự nghiệp của nhà thơ viết kịch Euripide đã kết thúc nền bi kịch Hi Lạp với những đóng góp cuối cùng – chân dung con người bình thường nổi lên với những yêu thương căm giận sục sôi nhất.


 sưu tầm
( mình học thì cô chỉ nói về Promete bị xiềng thôi ;) )