Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI ( phần 1 )

THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI
 Phùng Hoài Ngọc
đề cương bài giảng
Lưu hành nội bộ
ĐẠI HỌC AN GIANG  2006
—————————————————–

GS Trần Đình Sử ngồi hàng đầu, tóc bạc, đeo kính, thứ 3 từ trái sang,
Phùng Hoài Ngọc  hàng sau cùng, góc trái, đứng ngay dưới ngôi sao vàng.
 
LỜI NÓI ĐẦU
“Thi pháp học hiện đại” là bộ môn nghiên cứu văn học mới được xây dựng tương đối hoàn chỉnh ở thế kỉ XX. Đây là hướng nghiên cứu mới rất cần thiết để nâng cao năng lực chiếm lĩnh các giá trị văn học cho người đọc, nhất là giáo viên văn học và học sinh.
Nghiên cứu lí luận phê bình văn học là lĩnh vực phức tạp khó khăn, ít khi đạt được sự nhất trí cao. Công việc dạy văn học văn cũng có tình trạng tương tự. Hy vọng bộ môn thi pháp hoc hiện đại với sức mạnh khoa học của nó sẽ góp phần giải quyết được mâu thuẫn nói trên.
Trong chuyên đề này, phần lý thuyết được rút gọn, tăng cường phân tích tác phẩm văn học có trong chương trình phổ thông và một số tác phẩm quen thuộc khác. Nó chỉ gợi ý, góp phần mở rộng chân trời cảm thụ tác phẩm, chiếm lĩnh đặc trưng bản chất nghệ thuật, giúp sinh viên nâng cao tiềm lực, trau dồi cản nhận văn học. Người đọc chiếm lĩnh tác phẩm bằng cảm nhận có ý thức, có lí chứ không phải tuỳ hứng tuỳ tiện. Thi pháp học hiện đại cố gắng giúp người đọc văn chương thấy ngay những “hướng tiếp cận ” đơn giản để sau đó cảm nhận, tinh tế hơn, sâu sắc hơn.

Cấu trúc tài liệu

MỞ ĐẦU: THI PHÁP VÀ THI PHÁP HỌC
1. Khái niệm thi pháp và thi pháp học
      2. Ba đặc điểm của tác phẩm văn học

3. Bốn khái niệm cơ bản của thi pháp học

TÁM  KIỂU THI PHÁP CƠ BẢN TRONG SÁNG TẠO VĂN HỌC
  1. Thi pháp nhân vật
  2. Thi pháp không gian nghệ thuật
  3. Thi pháp thời gian nghệ thuật
  4. Thi pháp chi tiết nghệ thuật
  5. Thi pháp cốt truyện
  6. Thi pháp kết cấu
  7. Thi pháp lời văn nghệ thuật
  8. Thi pháp hình tượng tác giả
Kết luận
Thực hành-  luyện tập
Biên giả
Đại học An Giang 7.2006
PHẦN MỞ ĐẦU
 THI PHÁP VÀ THI PHÁP HỌC
I.  Dẫn nhập
Cho đến nay từ “thi pháp” đã khá quen thuộc với những người học tập nghiên cứu hoặc quan tâm đến văn học. Trên sách báo văn nghệ, người ta nhắc đến nhiều thi pháp tác phẩm, thi pháp tác giả, thi pháp thể loại, thi pháp thời kì…
Thi pháp là gì ?
Có nhiều cách hiểu khác nhau. Chung quy có hai cách:
Một là: coi thi pháp là nguyên tắc, biện pháp chung tạo ra tác phẩm nghệ thuật.
Thông thường gọi là “phương pháp làm thơ, làm văn”. Lí thuyết mang tính cổ điển, được lưu truyền nhằm bồi dưỡng nhà văn .
Hai là: hiểu thi pháp là nguyên tắc, biện pháp sáng tạo cụ thể, tạo thành đặc sắc nghệ thuật của một tác giả, tác phẩm, trào lưu, thể loại.v.v..
Cách thứ 1 gần với mĩ học, lý thuyết văn học, cách thứ 2 gần với phê bình thưởng thức tiếp nhận những hiện tượng văn học nghệ thuật.
Nghiên cứu thi pháp gọi là thi pháp học.
Hai kiểu thi pháp học nói trên đều có mục đích khám phá nguyên tắc phổ  biến hoặc cụ thể lịch sử đã tạo ra nghệ thuật. Tóm lại: Thi pháp học hiện đại là môn chuyên nghiên cứu các hệ thống nghệ thuật cụ thể. Thi pháp học là một khoa học ứng dụng trong văn học, gần gũi với phân tích phê bình và nghiên cứu văn học.
Thi pháp học gần gũi với lí luận văn học nhưng vẫn khác, thử so sánh:
  • Lí luận văn học thiên về nghiên cứu các quy luật chung của hiện tượng văn học. còn thi pháp học thiên về nghiên cứu các tác phẩm, thể loại, tác giả, phong cách, trào lưu, ngôn ngữ, nguyên tắc đặc thù tạo thành hiện tượng văn học cụ thể mà thôi.
  • Thi pháp học gần gũi với phê bình văn học nhưng cũng khác:
      Phê bình văn học có thể đi từ những góc độ khác nhau mà phát hiện khám phá nội dung và đánh giá chúng. Còn thi pháp học thiên về phát hiện, khám phá các quy luật hình thức nghệ thuật.
Nhìn chung, thi pháp học là một bộ phận chuyên biệt của NGHIÊN CỨU VĂN HỌC, chuyện nghiên cứu tính đặc thù và nguyên tắc nghệ thụât của văn học.
Những đặc tính của thi pháp học nói trên bắt đầu từ thời cổ đại Hy Lạp, qua phương Tây đến Nga rồi đến Việt Nam. Viện sĩ Khravchenko (Nga) phân loại :
+Thi pháp học lí thuyết cố gắng nghiên cứu cấu trúc, hình thức của tác phẩm văn học.
+Thi pháp học lịch sử nghiên cứu sự tiến hoá của phương thức phương tiện chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng và nghiên cứu sự hoạt động của chức năng thẩm mĩ của chúng và số phận lịch sử của các khám phá nghệ thuật.
II. THI PHÁP HỌC TỪ CỔ ĐIỂN ĐẾN HIỆN ĐẠI
Ban đầu (thời cổ Hi Lạp), người ta nghiên cứu thi pháp nhằm mục đích tổng kết kinh nghiệm sáng tác, truyền dạy các phép tắc làm văn làm thơ, dành cho nhà văn. (Gọi là thi pháp học cổ điển, thuộc phạm vì thi pháp học lí thuyết ).
Về sau, thi pháp học chuyển sang nghiên cứu cách đọc, cách khám phá tác phẩm nhằm phục vụ người đọc văn chương, giúp họ chiếm lĩnh giá trị nghệ thuật một cách khoa học. (Gọi là thi pháp học hiện đạ, thuộc phạm vi thi pháp học lịch sử ).
Định nghĩa về thi phápthi pháp học hiện đại
Thi pháp là một hệ thống các phương tiện và phương thức thể hiện cuộc sống bằng nghệ thuật, khám phá cuộc sống bằng hình tượng”.
Nói cách khác, thi pháp là ý thức nhà văn khi sáng tạo ra hình thức nghệ thuật. Hình thức nghệ thuật có hai mặt:
-         Mặt cụ thể, cảm tính (chất liệu tác phẩm, không gian, thời gian, chi tiết, tình tiết, nhân vật, sự kiện, mâu thuẫn, xung đột …)
-         Mặt quan niệm (lí lẽ, nhận thức, triết lí, tư tưởng, tình cảm…)
Thi pháp họccông việc tìm ra cái hình thức mang quan niệm, tức là cái phương thức tư duy nghệ thuật của nhà văn nghệ sĩ đã ngưng kết thành cái hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn nghệ. Nói đơn giản : Thi pháp học nghiên cứu cái thi pháp
Thi pháp của Aristote xuất hiện cách đây hơn hai ngàn năm là điển hình của loại “thi pháp học sáng tác”. Ông coi sáng tác là một thứ kĩ thuật và ông hy vọng cuốn sách “Poetika” của ông là cuốn cẩm nang cho những ai muốn sáng tác bi kịch… Ông viết: “nhiệm vụ của nhà thơ không phải là tả những sự việc đã xảy ra mà là miêu tả  những việc có thể xảy ra… Cũng như hoạ sĩ, nhà thơ là một người mô phỏng”.
Sau Aristote, nhà thơ Horace viết cuốn “Nghệ thuật thơ” cũng dạy cách sáng tác thơ. Ông khuyên “khi miêu tả đề tài, tốt nhất là hãy mượn của sử thi Illiade”.
Nhà phê bình Boileau (Pháp thế kỉ XVII) trong cuốn “Bàn về nghệ thuật thơ” đã viết: “Anh phải yêu lí tính, phải làm sao cho mọi sáng tác của anh toả ra ánh sáng giá trị của lí tính”.
Lessing nhà văn Ánh sáng Đức trong cuốn “Laoken” cũng bỏ công đi tìm tòi quy luật sáng tác.
Lưu Hiệp nhà phê bình văn học Trung Quốc thời Nam Bắc triều viết cuốn “Văn tâm điêu long” đã đúc rút ra những quy tắc sáng tác. Hàng trăm cuốn “thi thoại” (nói chuyện làm thơ) từ đời Tống đến đời Thanh cũng thiên về tìm tòi quy tắc sáng tác. Nghiêm Vũ trong cuốn “Thương lang thi thoại” đã dạy : “Kẻ học làm thơ phải lấy kiến thức làm chủ, vào phải chính, lập chí phải cao, lấy Hán, Nguỵ, Tấn và Thịnh Đường làm thầy”. Viên Mai trong cuốn “Tuỳ viên thi thoại” nhắc nhở: “Thơ có cành mà không có hoa là cành củi khô, có thịt mà không có xương là loài sâu bọ, có người mà không có cái “tôi” là bù nhìn, có thẳng mà không có cong là cái ống cất rượu”.
Việt Nam cũng có những nhà văn chú ý bàn chuyện sáng tác, tiêu biểu như Chế Lan Viên bàn việc thơ, Nam Cao bàn chuyện làm văn. . . Chế Lan Viên trong bài thơ “Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…” đã tâm đắc viết:
“Hình thức cũng là vũ khí
Săc đẹp câu thơ cũng phải đấu tranh cho chân lí
Anh nghe cái mặn của đời đang độ kế tinh
Nó chưa thành hình, anh làm nó thành hình
Chưa thành hạt, anh làm cho nó thành hạt
Rồi trả tận tay người cùng với máu anh.”
Nhà thơ Nguyễn Đình Thi viết: “Đụng chạm với hành động hàng ngày, tâm hồn tự nảy lên bao nhiêu hình ảnh như những tia lửa loé lên… Người làm thơ lượm những tia lửa ấy kết nên một bó sáng – đó là hình ảnh thơ” (Mấy vấn đề văn học).
Nhà văn Nam Cao tâm sự trong truyện ngắn “Đời thừa”: “Một tác phẩm thật giá trị…phải chứa đựng được một cái gì lớn lao mạnh mẽ, vừa đau đớn vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình…Nó làm cho người gần người hơn”.
Do nối tiếp truyền thống thi học cổ điển, bộ môn lí luận văn học ở nước ta trong mấy chục năm qua lại càng đi sâu vào lĩnh vực lí thuyết sáng tác. Chẳng hạn: họ bàn về cách chọn đề tài, dùng nguyên mẫu, học tập ngôn ngữ nhân dân, chọn chi tiết, phương pháp điển hình hoá, phương pháp sáng tác,…với những lời khuyến cáo, dặn dò, yêu cầu người sáng tác “nên, hãy, cần phải” .v.v..
Văn học theo nghĩa rộng rãi đầy đủ không phải chỉ sáng tác. Còn tiếp nhận, thưởng thức, phê bình nữa mới đủ nội hàm “lí luận về văn học” hoặc “lí thuyết về đời sống văn học”.
Khác với thi pháp học truyền thống, thi pháp học hiện đại phát triển về phiá sự tiếp nhận văn học. Tiếp nhận gắn liền với sự thức tỉnh của ý thức người đọc. Thi pháp học hiện đại có thể được gọi là “thi học tiếp nhận”, thực ra đã manh nha từ di sản thi học Ấn Độ, Trung Hoa, Hi Lạp. Cả phương Đông và phương Tây đều có truyền thống chú giải, cắt nghĩa tác phẩm ngữ văn tuy còn chưa đến mức độ thi pháp nghệ thuật. Đời nhà Minh, ý thức “đọc” được đẩy mạnh với Kim Thánh Thán và Mao Tôn Cương khi họ phê bình  tiểu thuyết, kịch và thơ. Đời Thanh có nhiều công trình thi học nghiên cứu thường thức thơ Đỗ Phủ…Ở phương Tây, thi pháp đọc được chú trọng khi giải thích tác phẩm của Shakespeare (sau trở thành khoa Shakespeare học). Thời hiện đại Trung Quốc hình thành Hồng lâu mộng học. Ở Nga ngày nay có môn Sholokhov học. Đây là lúc thi học đã hoàn chỉnh hơn trước rất nhiều.
Tuy vậy phải đến nửa sau thế kỉ XX vấn đề đọc tác phẩm mới dần dần trở thành một khoa học. Ngày xưa dẫu sao cách cảm nhận, tiếp nhận vẫn nặng về chủ quan, cảm tính ấn tượng hoặc ngược lại theo quan điểm giáo điều, đạo đức, chính trị…, cách đây chưa lâu người ta còn tiếp nhận theo lối khách quan xã hội học. Nghĩa là đi từ bên ngoài, đi từ hiện thực hoặc ý muốn chủ quan tìm cách thâm nhập và đánh giá tác phẩm và tác giả.
    Thi pháp học hiện đại (tiếp nhận, cảm nhận) bắt đầu sôi sục lên từ trường phái “Phê bình mới” trong văn học Mỹ. Khởi đầu, trường phái này tỏ ra phản ứng với:
-         Lối phê bình ấn tượng chủ nghĩa (chỉ chú ý tới ấn tượng chủ quan gợi lên từ tác phẩm)
-         Lối phê bình tâm lí chỉ chú ý tiểu sử tác giả
-         Lối phê bình lịch sử – xã hội chỉ chú ý ảnh hưởng  của hoàn cảnh lịch sử -xã hội.
Cả ba lối trên đều không chú ý thích đáng tới yếu tố sáng tạo nghệ thuật của tác phẩm văn học. “Phê bình mới” yêu cầu xem tác phẩm nghệ thuật như một hiện tượng nghệ thuật. Các nhà phê bình Mỹ có những quan niệm khác nhau về tác phẩm nghệ thuật:
-         Tác phẩm văn học là một biểu hiện (Spingard)
-         Tác phẩm là một cấu trúc ngôn ngữ (Hium)
-         Tác phẩm là một cảm quan toàn vẹn về thế giới (Eliot)
-         Tác phẩm là một thế giới độc lập, tự trị (Richard, Empson, Brooks, Waren)
Tóm lại, “Phê bình mới” Mỹ đã khắc phục quan niệm nhị phân hình thức và nội dung. Họ khẳng định: hình thức tức là nội dung và cũng là biểu hiện.
Thi pháp học hiện đại Pháp lại phát triển trên cơ sở “chủ nghĩa cấu trúc” và “kí hiệu học”. Họ coi cách viết là lập mã,  cái nghệ thuật là cái có giá trị nhất.
Thi học Anh có Roman Jacobson duy trì quan niệm coi nghệ thuật là thủ pháp, ông nghiên cứu chức năng thơ ca trên lập trường ngôn ngữ học.
Thi pháp học Nga những năm đầu thế kỉ cũng trỗi dậy như ở Anh, Mỹ. Họ kiên quyết đòi hỏi phải coi tác phẩm văn học như một hiện tượng nghệ thuật (Girmuaski). Còn A.Veselovski xây dựng “Thi pháp học lịch sử” nhằm nghiên cứu sự vận động của nội dung văn học và bản thân hình thức văn học.
Hình thức văn học là hình thức chiếm lĩnh đời sống, nghĩa là nó bày tỏ cách nhìn, cách cảm nhận đời sống của nhà văn. Nhà văn sáng tạo hình tượng là để nhìn tận mắt mọi bề sâu của đời sống, để cảm, để hiểu cho rõ hết các ý nghĩa, giá trị của nó. Lịch sử văn học chính là lịch sử tiến hoá của hình thức cảm nhận và biểu hiện đó. Nhà nghiên cứu Bakhtin (Nga) trong công trình “Những vần đề thi pháp Dostoievski” đã viết: “Không hiểu đúng hình thức mới của cái nhìn thì không thể hiểu đúng những điều nhận thấy ở cuộc sống”. Ở nước Nga đã có hàng chục công trình lớn về thi pháp.
Thi pháp học đang hướng tới bạn đọc. Ngày nay nhu cầu tiếp nhận văn học hiện đại, văn học quá khứ của dân tộc và nhân loại ngày càng trở nên bức thiết. Người đọc cần phải có “chìa khoá” để mở ra tất cả kho tàng văn học đó. Mặt khác, văn học hiện đại theo xu hướng cá tính hoá ngày càng mạnh, văn học ít khi lặp lại mà thường nảy sinh nhiều cái mới.
Riêng trong phạm vi nhà trường, một thời gian dài bộ môn lí luận văn học vốn là sản phẩm của “thi pháp học cổ điển” tức là “thi pháp học sáng tác” đã từng đòi hỏi học sinh xem tác phẩm dưới con mắt nhà sáng tác. Nhưng nhu cầu về văn học chủ yếu lại là nhu cầu tiếp nhận văn học. Nhà giáo dạy văn cần có ý thức sử dụng Thi pháp học tiếp nhận – cảm nhận (hiện đại) để hướng dẫn học sinh tiếp nhận văn học một cách khoa học.
III – BA ĐẶC ĐIỂM CỦA HÌNH THỨC NGHỆ THUẬT
     – Tính hệ thống
     – Tính quan niệm
      – Tính tinh thần
        1. Hình thức nghệ thuật có tính hệ thống
Nghiên cứu văn học lâu nay ít quan tâm đến tính hệ thống mà chỉ chú ý khai thác các bộ phận riêng lẻ rời rạc tuỳ hứng nên dẫn đến chủ quan, phiến diện và sai lầm.
Theo GS Trần Đình Sử nghiên cứu thi pháp Tryện Kiều
khi bình giảng câu thơ
                 “Sẵn thây vô chủ bên sông/đem vào để đó lộn sòng ai hay” (Truyện Kiều)
có nhà nghiên cứu cho rằng câu thơ đã phản ánh thời kì loạn lạc, nơi đâu cũng có (sẵn) xác chết. Khi chúng ta tìm hiểu tất cả những chữ “sẵn” đã dùng vài lần trong Truyện Kiều thì thấy :
-         Sẵn tay khăn gấm quạt quỳ/ Với cành thoa ấy thì đổi trao  (Kiều và Kim Trọng)
-         Sẵn dao tay áo tức thì giở ra  (Kiều phản kháng Tú bà)
-         Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân (Quan Âm các trong vườn nhà Hoạn Thư)
-         Dưới đèn sẵn bức tiên hoa/ Một thiên tuyệt bút gọi là để sau  (Trên sông Tiền Đường, Kiều viết thư tuyệt mệnh trước khi nhảy xuống sông)
    Ta nhận thấy chữ “sẵn” trong tất cả các trường hợp trên không có nghĩa là “nhiều”. Đó chỉ là lời thuật chuyện vắn tắt, tránh rườm rà, cốt sao cho sự kiện đi đúng hướng đã định, khỏi tản mạn vì những chi tiết không cần thiết, đặc biệt vì Truyện Kiều là truyện bằng thơ cần ngắn gọn. Như vậy chữ “sẵn” đã lặp đi lặp lại nhiều lần cùng một nghĩa – tức là đã tạo ra một hệ thống hình thức. Vây ý nghĩa của câu thơ “sẵn thấy vô chủ bên sông…” phải được hiểu theo ý nghĩa hệ thống chữ “sẵn” mà Nguyễn Du thường dùng: Bọn Khuyển Ưng, Khuyển Phệ đã chuẩn bị một cái xác chết (nhà thơ không cần thiết kể về việc đi tìm cái xác) để vào ngôi nhà Kiều rồi phóng hoả. Nhà phê bình kể trên chỉ căn cứ vào một chữ “sẵn” riêng lẻ mà không quan tâm tới “hệ thống chữ sẵn” trong cả Truyện Kiều, ông ta chỉ dựa vào bối cảnh thời phong kiến suy tàn có nhiều loạn lạc mà suy ra ý nghĩa câu thơ một cách áp đặt sai lầm.
  Ví dụ khác: Cách gọi tên “anh Dậu, chị Dậu” của nhà văn Ngô Tất Tố trong truyện ngắn “Tắt đèn” nghe qua không thấy ý nghĩa gì. Nếu  ta đặt cách gọi nhân vật trong hệ thống cách gọi tên nhân vật trong nền văn học Việt Nam 1930 – 1945 thì cách gọi của Ngô Tất Tố có ý nghĩa đáng kể. Thời ấy các nhà văn thường gọi nhân vật bình dân là “y, thị, hắn, gã, thằng, mụ…” (Nhất Linh, Khái Hưng…Nam Cao). Điều  này cho thấy nhà văn Ngô Tất Tố đã có cách nhìn và đánh giá người bình dân  trân trọng hơn, vì sao ? Vì Ngô Tất Tố đứng từ góc độ nhà báo dân chủ . . .
2. Hình thức mang tính quan niệm
         Hình thức nghệ thuật không đơn giản chỉ là những phương tiện, chất liệu và thủ pháp ngẫu nhiên vô tình mà những cái ấy đều thể hiện quan niệm rõ rệt của tác giả.
               Hình thức nghệ thuật có hai mặt:
-         Một là hình thức cụ thể cảm tính (lời văn, cảnh vật, nhân vật…)
-         Hai là hình thức quan niệm (cái lí của hình thức: Vì sao tác giả lại chọn hình thức ấy mà không là cái khác ?)
Chẳng hạn trong Truyện Kiều, Nguyễn Du viết:
+ Thoắt mua về, thoắt bán đi
+ Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên
  Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao
Những chữ “thoắt” biểu hiện tình trạng đảo điên đột ngột gấp gáp, gợi ra những cảnh đời bất trắc, bất ổn, đổ vỡ, vùi dập…
Trong thời thế ấy, Thuý Kiều phải chạy đua với số mệnh (gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường).
  Một số ví dụ khác: thơ Bà Huyện Thanh Quan thường miêu tả cảnh chiều hôm, chiều tà, bóng xế… vắng vẻ. Không – thời gian này biểu lộ quan niệm của nhà thơ về hồi suy tàn của chế độ phong kiến. Thơ bà còn dùng nhiều từ Hán Việt thể hiện sự hoài cổ, long trọng khi nói về quá khứ đẹp đẽ. Trái lại thơ Hồ Xuân Hương có nhiều từ ngữ nôm na, thậm chí gần như thô tục, trần trụi nhằm phê phán cái trần tục của người đời và biểu lộ cách sống ưa xúc cảm tinh tế tao nhã của mình.
3. Hình thức nghệ thuật mang tính tinh thần
          Tác phẩm nghệ thuật chỉ tồn tại trong tinh thần. Nó chẳng phải là tập giấy (văn thơ), khối gỗ đá (bức tượng) mà là một thế giới nghệ thuật sống trong tinh thần của ta khi ta thưởng thức nó (tựa như người đọc mộng du khi đọc sách – nghĩa là thoát ra khỏi đời sống vật chất và đi lạc vào thế giới khác – thế giới tinh thần, thế giới đó sẽ tạm chấm dứt khi ta thôi đọc sách).
    Tuỳ theo người đọc, mỗi người có một “tác phẩm riêng” lưu lại trong cách đọc của mình mặc dù đều bắt đầu từ một tác phẩm cụ thể nào đó.
 Tóm lại: Chúng ta cần nắm vững ba tính chất kể trên của hình thức nghệ thuật, để từ đó mà xác định nội dung. Như thế gọi là giải mã hình thức để chiếm lĩnh nội dung.
                  BÀI TẬP THỰC HÀNH
  1. Ý nghĩa của những tựa đề thơ Tố Hữu thường gặp là “bài ca / tiếng hát” sau năm 1954 là gì? (xem các tập thơ Gió lộng, Ra trận của Tố Hữu, thống kê những tên bài tương tự)
  2. Bản chất của tác phẩm Hòn Đất của Anh Đức là gì? (tiểu thuyết hay thơ/ trường ca hay bản hợp xướng anh hùng ca )
IV.  BỐN KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA THI PHÁP HỌC
Do thiên về vần đề sáng tác, lí luận thi cổ điển thường nêu ra quá trình văn học sau:
Cuộc sống à Nhà văn à Tác phẩm
Thi pháp học hiện đại nhìn theo hướng ngược lại:
Người đọc à Tác phẩm à Nhà văn à Thế giới hiện thực
Quá trình đó là : Khám phá tác phẩm hoặc toàn bộ tác phẩm trong tính toàn vẹn của nó để thâm nhập vào tâm hồn tác giả và thế giới, cuộc sống chung.
Muốn thực hiện quá trình đó, chúng ta cần xác định mấy khái niệm cơ bản sau đây:
  1. Tác phẩm văn học là một thế giới ý nghĩa
Văn học không sao chép đơn giản các hiện tượng đời sống mà nhằm nắm bắt các ý nghĩa giá trị của hiện thực bằng những hình tượng sáng tạo. Ý nghĩa và giá trị trong cuộc sống thực tế thì rời rạc, tản mạn, hỗn độn. Ý nghĩa và giá trị trong tác phẩm nghệ thuật thì tập trung, nổi bật lên, tạo nên một thế giới đặc biệt. Do đó, các hiện tượng trong tác phẩm nghệ thuật mang ý nghĩa không đồng nhất với các hiện tượng tương tự trong đời sống. Ví dụ: bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương không nhằm giới thiêu một món ăn dân tộc. Nó được viết ra để nói một tấm lòng hiền dịu thuỷ chung và cam chịu gian khổ của người phụ nữ. Trong Truyện Kiều, Thuý Kiều thực tế đang ở “lầu xanh” nhưng trong cảnh Từ Hải gặp gỡ Thuý Kiều, nhà thơ Nguyễn Du lại kể:
Thiếp danh đưa đến lầu hồng
Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa
Nhà thơ không nhầm lẫn khi nói vậy. Trong tình cảm của ông, Thuý Kiều chẳng phải cô gái bán hoa, nàng vẫn là tiểu thư khuê các, là giai nhân sang trọng chốn lầu hồng.
Tóm lại: Mọi hiên tượng đời sống khi nhập vào thế giới nghệ thuật sẽ mang ý nghĩa mà tác giả phú cho nó, có thể sẽ khác xa tình trạng vốn có. Điều đó không có nghĩa tác giả bôi bác hay tô hồng cuộc sống hoặc cố ý làm nó biến dạng.
Đến đây có hai vần đề cần được tiếp tục xem xét:
-                     Các phạm trù ý nghĩa của tác phẩm nghệ thuật
-                     Các phương diện hình thức biểu hiện những ý nghĩa đó.
2. Hai cặp phạm trù ý nghĩa của tác phẩm văn học
2.1. Ý nghĩa khách quan và ý nghĩa chủ quan
Tác phẩm văn học chứa đựng một thế giới nhân sinh mà người đọc có thể nhận ra. Đó là con người, sự vật, xung đột, thể tài, chủ đề, tính cách, số phận…  mang ý nghĩa khách quan của tác phẩm văn học.
Nhưng còn  một ý nghĩa khác quan trọng hơn: ý nghĩa chủ quan. Qua những hiện tượng và vấn đề của đời sống mà mọi  người đều biết, tác phẩm còn có những ý nghĩa đặc biệt do bạn đọc khám phá ra. Ngay các thi sĩ miêu tả trăng nhưng chẳng ai giống ai. Vây là có nhiều ánh trăng khác nhau tuỳ theo sự cảm nhận của thi sĩ (và cảm nhận của bạn đọc cũng khác), điều này giúp người ta cảm nhận thế giới và cuộc sống con người thật phong phú, mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn. Ý nghĩa chủ quan này được biểu hiện bằng hình tượng liên tưởng, liên kết gợi ra một trường cảm nhận. Ví dụ: Bài thơ “Ca tụng”của Xuân Diệu:
Trăng, vú mộng của muôn đời  thi sĩ

Giơ hai tay mơn trớn vẻ tròn đầy

…Trăng, võng rượu khiến đêm mờ chếnh choáng
…Hỡi trăng đẹp, người là trăng náo nức
Người hãy khóc, người không cần sự thực
Nhớ thương luôn nên mắt có quầng viền.
Còn đây là trăng của Lý Bạch (Tĩnh dạ tư):
            Đầu giường ánh trăng rọi
(ý nói trăng đi theo tìm nhà thơ)
và Bạch Cư Dị:
            Thuyền mấy lá đông tây lặng ngắt
            Một vầng trăng trong vắt lòng sông
                                                            (Tì bà hành)
Ánh trăng trở thành kẻ tri âm của Bạch Cư Dị, là bạn cũ thuở thiếu thời của Lý Bạch và là người tình của Xuân Diệu vậy.
Nhà thơ đã thổi cái ý nghĩa chủ quan của mình vào một hiện tượng chung của thế giới, kí thác một ý nghĩa mới vào trong ý nghĩa khách quan thông thường của tác phẩm.
2.2   Ý nghĩa bộ phận, ý nghĩa toàn thể
 Khi tiếp nhận tác phẩm văn học, người ta phải hiểu từng chữ từng câu, chi tiết, tình tiết, nhân vật, sự kiện, tức là từng bộ phận hợp thành tác phẩm. Nhưng cuối cùng, ý nghĩa toàn thể của tác phẩm chẳng phải là tổng số giản đơn các ý nghĩa bộ phận. Ý nghĩa chỉnh thể (toàn thể) là tích hợp của các ý nghĩa bộ phận, là cảm hứng chủ đạo chi phối toàn bộ tác phẩm, là quan niệm chung quyết định sự lựa chọn và tổ chức nên tác phẩm. Ý nghĩa chỉnh thể là ý nghĩa tổng quát, triết lí nhân sinh. Ở phương Đông, các nhà hiền triết thường đòi hỏi “văn dĩ tải đạo”, “văn dĩ minh đạo”… Ý nghĩa chỉnh thể là thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả. Vậy là, chúng ta phải xem xét quan niệm của tác giả về thế giới, con người, không gian, thời gian, lẽ sống. Ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm nghệ thuât là giới hạn tối cao mà người đọc muốn tìm đến, muốn cảm nhận khi tiếp cận một tác phẩm nghệ thuật.
  1. 3.       Hình thức nghệ thuật văn chương là hình thức mang ý nghĩa
            Người ta thường cho rằng ý nghĩa thì giấu kín ở bên trong (nội dung), còn hình thức chỉ lá cái vỏ, cái bình đựng rượu  chẳng có ý nghĩa gì ( !? ) Điều đó thật sai lầm !
            Hình thức là cái bề ngoài. Với văn học, hình thức là văn bản bao gồm ngôn từ, câu chữ, nhịp điệu, vần luật, cách gọi nhân vật… cấu trúc, bố cục, ngoại cảnh, nội tâm v.v.. Đó là những hình thức của một cái nhìn nghệ thuật cũng gắn liền và biểu hiện nội dung.
            Hình thức nghệ thuật không chỉ là chất liệu thủ pháp mà còn là hình thức cảm thấy sự vật, hình thức chiếm lĩnh ý nghĩa giá trị của thế giới. Hình thức đó thể hiện tính tích cực của nghệ sĩ. Nhờ đó, tác phẩm không phải là đồ vật mà là sự sống trong tâm thức người đọc.
            Mỗi thời đại, mỗi thể loại, mỗi tác giả… chỉ nhìn thấy một lớp đời sống nào đó, tuỳ thuộc vào quan niệm nghệ thuật về con người, không gian, thời gian, ngôn ngữ, cốt truyện, nhịp điệu…
            Hãy xem Nguyễn Du tả Thuý Vân:
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da
      Thuý Vân mang những vẻ đẹp của thiên nhiên vũ trụ (trăng, tằm, hoa, ngọc, mây, tuyết) thiếu vẻ đẹp trần tục, không có dấu ấn nghệ sĩ như Kiều.
         Đến thời hiện đại, trong dòng Thơ Mới, thi sĩ Xuân Diệu nhìn trăng đẹp như nhìn người con gái đẹp, lãng mạn, náo nức.
        Hình thức nghệ thuật vừa lặp lại vừa độc đáo ở một nghệ sĩ. Muốn nghiên cứu thi pháp của văn chương, chúng ta cần phát hiện ra những yếu tố lặp lại ấy.
  1. 4.      Tính chất lịch sử cụ thể của hình thức nghệ thuật
 Sáng tác văn học là một sản phẩm của lịch sử. Nó phụ thuộc vào tác giả mà tác giả lại phụ thuộc vào trình độ văn hoá, trình độ tư duy của xã hội và các hình thái ý thức khác (như triết học tôn giáo, chính trị..) . Sáng tác văn học cũng phụ thuộc cả mối quan hệ giao lưu văn hoá với nước ngoài.. . Lịch sử trôi đi, mỗi giai đoạn có diện mạo riêng không lặp lại. Hình thức nghệ thuật là một hiện tượng cụ thể lịch sử cũng không lặp lại.
Thi pháp học lịch sử sẽ nghiên cứu sự vận động của các hình thức nghệ thuật. Lịch sử thi pháp sẽ chỉ ra sự tiến bộ của năng lực sáng tạo nghệ thuật của con người – đồng thời cũng tương ứng với trình độ văn minh của nhân loại.
Sự tiếp nhận  thi pháp của văn chương cũng mang tính lịch sử cụ thế.
(còn nữa)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét